KỆ QUÁN CHÂN TÔN

LƯU BÚT KHAI ĐẠO QUẢNG NAM ĐÀ NẴNG

LƯU bút khai hoa viết sổ vàng,
NIỆM tình Sư Bổn trổ muôn phang,
KHAI thông vạn nẽo về Như Trí,
ĐẠO rõ chân nguyên tỏ Niết Bàn.
ĐÀ NẴNG cung nghinh,ngày tháng chín,
QUI NHƠN chung lễ đẹp duyên khang,
NHỨT TÂM thường tịnh, xây Tam Giới,
NGUYỆN ĐẲNG Vương Tôn. Bát Niết Bàn.

TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN
Ngày mùng chín,tháng chín, năm Qúy Sửu
04-10-1973

TÌNH LỜI HẠ SANH KỶ NIỆM NĂM KỶ MÙI

Giữa buổi trời xanh, nắng dịu hòa
Thuyền con, bườm trắng chạy xa xa,
Nha Trang bãi biển chiều thanh lịch,
Tôi kể thời xưa chuyện đã qua:
Năm ấy Đông đi, xuân sắp về,
Cánh đồng thịnh trị khắp thôn quê,
Lương dân vui hưởng ba ngày tết,
Giải sạch lo phiền chuyện gớm ghê.
Năm bốn năm qua... Tết những gì?
Nhà nhà vôi trắng, dựng Nêu Quy,
Có câu Liễn Đỏ hai bên cửa,
Có pháo huy hoàng mong chứng tri.
Trong lúc ấy, kẻ đi người lại,
Mua sắm đồ cầu vái Chư Thiên,
Huyền linh chung khắp các miền,
Thực hư, hư thực bởi duyên thanh bình.
Cùng ngày hai bốn viên minh,
Cũng trong tháng chạp,một mình Ta Thôi.
Phất phơ trên đảnh mây trời,
Đương Lai Sanh Hạ hợp thời Hạ Nguyên.
Ta có nói vẫn lời dư dả,
Ngày hôm nay thư thả như nhiên.
Phú cho mạt thế vẹn tuyền,
Của Như Lai Dụng, một phiên diễn tuồng.
Thiện Chân Tử chính nguồn an ủi,
Pháp Tạng nầy, chung tuổi ấm êm,
Miễn sao dưới mái gương thềm,
Chung vui hoàn giác, nỗi niềm Tôi mong.

TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN
 Ngày Đản Sanh: 24-12 Nhâm Tý (08-02-1972)

LÚC NÀO ĐƯỢC TU?

Bậc tu cần hiểu đặng đường tu,
Hoá giải vô minh thoát khỏi mù,
Bằng giữ Tín Tâm chưa rõ lối,
Trăm năm vạn kiếp chịu thiên thu.
Gặp lúc được tu Ta chẳng tu,
Tâm hằng phân tách Dại, Khôn, Ngu,
Đương nhiên dị biệt, lòng đen tối,
Dù niệm Phật hoài, chính chưa tu.
Biết tu gặp cảnh trái ngang
Lòng an nhiên tỉnh,chính đàng đương tu.
Gặp khi gai mắt trái lời,
Tâm không oán tức, tức thời được tu.
Biết tu xem xét nghiệp mình,
Trước sau hối cải, là mình đang tu.
Bậc tu, chớ vọng đâu xa,
Quán nơi gia cảnh trong nhà để tu.
Người ơi! Tu cốt lai hoàn
Chớ nào có phải tu mang giận hờn?
Người ơi! Tu cốt tỏ chân (chân lý)
Chớ nào có phải tu cần vinh hoa?
Người ơi! Tu cốt Tâm hòa
Tạo nền ĐỨC TRÍ mới là chính tông.

TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN
Ngày l5 tháng 02 năm Giáp Dần (1974 )

TRƯỚC CẢNH VỊNH XUÂN

Mỗi độ xuân về tiếng pháo vang,
Năm nay tết đến chẳng trang hoàng,
Ngoài đường chú lính đang canh gác,
Trước ngõ Thằng Dân đứng ngỡ ngàng,
Nào phải hồn xuân đâu tắt hẳn?
Chỉ vì Non Nước vướng lòng tham,
Tạm dừng Thân Dậu khoan xơi tết,
Chứng tỏ niên lai kiến khải hoàn.

TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN
Năm Kỷ Dậu 26-12-l970

SỐNG ĐỘNG TÌNH MƠ. BỨC TRANH với anh chàng CUNG KIẾM

Tranh nầy ai khéo điểm tô,
Dáng hình Thu Thủy, mắt mơ nguyệt cầu.
Môi nàng mỉm gởi nơi đâu?
Hay là đã trọn in sâu kẻ chờ?
Ta mơ... Nàng cũng cùng mơ...
Ta đang vương cảnh, Nàng tờ giấy trinh.
Ta thời dạo khắp lộ trình,
Nàng in lặng lẽ, tấm tình sắc son.
Ta vung cung kiếm chẳng mòn,
Chí nung với chí. Nước non hải hồ.
Ngày mai xây dựng cơ đồ,
Ta mang bút ngọc về tô tranh nàng.
Thế rồi. Trong một thời gian,
Cân đai rạng rỡ. Anh chàng hồi hương.
Con Tuấn Mã khỏi còn cương,
Bước vào bên ảnh, lòng tuồng băn khoăn.
Lần tay lau lại bức tranh,
Chốn thời chốn cũ, chung quanh biến dời.
Tranh kia nào nói ra lời,
Mắt huyền, dáng thủy qua thời tình xuân.
Đời vạn nẻo mấy ai đà hiểu,
Tranh xinh xinh mắc miếu trong khuôn.
Một Nhân Sinh diễn mỗi tấm tuồng,
Nào ai thanh thoát khỏi luồng trầm mê...?
Kẻ kiếm cung vung tay đề thượng mã,
Thời tranh kia êm ả, liếc trời mây,
Tần Thủy Hoàng vạn lý còn đây,
Kìa Tô Vũ chăn dê nơi viễn quốc.
Đứng làm người thư hùng trời đất,
Miệng thét gào bất khuất trùng dương,
Giới Nhân Sanh dương thế chỉ một đường,
Mấy ai qua khỏi tấm tuồng lầm mê...?

TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN
 Ngày: l4-01 Năm Tân Hợi
( 09-02-l971 )

CHÚNG SANH NÀO? NÓ Ở NƠI ĐÂU?

Chúng Sanh nào phải nơi đâu?
Nó là: Tâm Ý đang ngồi thở than.
Chúng sanh suy nghĩ muôn ngàn,
Phân phân biệt biệt lỡ làng đường tu.
Chúng sanh than nặng nghiệp mù,
Tự sinh uể oải công phu không chừng.
Chúng Sanh so tính không ngừng,
Nhìn trên Tự Ngã thêm lừng hiên ngang.
Lười biếng mong Phật khải hoàn,
Sớm chiều hoài vọng, ngang hàng Thế Tôn.
Vì còn lưu nghiệp căn tồn,
Bậc tu Soi Sửa liền mòn chúng sanh,
Đạo Tràng bảo pháp dịu lành,
Bản năng lìa muốn, vạn ngành viên thông.

TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN
( 20-02-1971 )

KIẾM BẢY BÁU

Kiếm bảy báu nào ai trông thấy
Chỉ lúc dùng tận lấy mà thôi
Kiếm viên dung khắp cả Cõi Trời
Ma vương thất vía. Qủy thời thất kinh.
Kiếm bảy báu trang nghiêm sáng giới
Liết sơ qua chớm nới Tam Thiên
Nếu đặng nghe, biết rõ mối giềng
Bằng trọn thấy, Tâm yên rạng rỡ.
Kiếm bảy báu xô Thành tát bể
Phá Vô Minh về với Chân Như
Khắp nơi nơi kiếm chẳng chối từ
Ra vào vạn nẽo chung tư không màng.
Kiếm bảy báu huy hoàng linh động
Nơi Có Không hai chốn đều thông
Hiên ngang xanh nhạt tím hồng
Thinh hương sắc vị tận ròng viên minh.
Kiếm bảy báu ai ai sẵn có
Khi mê lầm kiếm nọ lấp bao
Lúc giác lai rạng rỡ muôn màu
Đồng chung tận giác, trước sau đâu thừa.
Kiếm nầy vật dụng đò đưa,
Chí kiên dũng chí, ngăn ngừa nghiệp vương.
Kiếm này Bảo Pháp tỏ tường,
Xẻ bờ ngăn ngại, biểu dương Đại Hùng.
Kiếm nầy tự tại ung dung,
Sáu đường Ba Cõi kiếm Hùng xóa tan.
Kiếm nầy suốt suốt an toàn,
Khải hoàn bảy báu, nhiếp hàng Tứ Châu.
Ba Thân viên mãn một màu,
Tứ Trí duy nhất hợp nhau Lai Hoàn.

TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN
Ngày l4-06-l970 Canh Tuất

CÙNG MỘT MÙA THU TA ĐỨNG NHÌN MÂY

Hôm nay Ta đứng nhìn mây,
Trúc mềm buông rủ. Trăng gầy lửng lơ.
Nghìn sao vun vút tỏ mờ,
Hồn chung vạn nẽo, lời thơ Tâm Tình.
Dù cho Phật Thánh, hiện thân, sinh.
Đâu khác như Ta diễn lộ trình
Vẫn một sớm chiều man mác tính
Do lòng đồng hóa hợp duyên trinh.
Ta đứng nhìn mây ý mộng vàng
Thời xưa Chư Tổ vẫn cưu mang
Nhân sinh vạn tướng hồi Như Tướng
Cốt rõ Nguyên Chân tỏ Niết bàn .
Dù rằng: Phật Thánh đến Phàm Phu
Chưa thấu Duyên Căn vẫn mật mù
Bổn Thể xoay vần Hoa Pháp Tính
Chẳng thông phân tách, kém duyên tu.
Hôm nay hiệp cảnh trời mây,
Tâm tình Chư Tổ vơi đầy đồng sinh.
Mấy ai rõ thấu chính mình,
Của Như Lai dụng, hiện hành Pháp Thân.
Lòng vàng, lòng trổi chuông ngân,
Mùa thu gợi nhớ vẹn phần xinh xinh.

TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN
(Ngày : 09-6, Qúy Sửu)
08-07-l973

THƯỜNG NHIỄM

Nhân sinh thường nhiễm bệnh hay lây,
Vì thế cho nên Nghiệp dẫy đầy,
Bậc trí khéo phương tầm lối giải,
Kẻ khờ vụng tính, đắm cuồng say,
Dù tu vạn kiếp hơn thiên hạ,
Trót nhiễm, trăm năm uổng tháng ngày,
Nếu rõ Nghiệp truyền hay mắc bệnh,
Ngã lìa Chánh Giác Đại lương Y.

TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN
Ngày 26-12-1970 (28-11 Canh Tuất)