7. CUỘC SỐNG CỦA NHÂN LOÀI DO VŨ TRỤ ĐIỀU HÀNH

Chiều chúng tôi đồng đến, được Thiền Sư mời ra bờ suối cạn, có nhiều phiến đá trông thanh nhã yên tĩnh, gió mát nhờ tiết trời giữa mùa thu. Vị Thiền Sư ngồi, giữa chúng tôi thứ lớp ngồi chung quanh, Thiền Sư nói: “Cuộc sống của Nhân Loài do Vũ Trụ và trái Đất điều hành cấp dưỡng, lấy đâu để chứng từ lời nói trên? Các ông cứ quan sát trên trái Đất có nhiều Nhà Nước, mỗi nhà nước THỔ NGỮ khác nhau. Đến như trong một nước, mỗi tỉnh Hạt, mỗi Địa Phương, tánh tình vẫn theo nơi tập quán của địa phương tỉnh hạt nơi mình ăn ở, giọng nói cứng mềm khác nhau, từ phương thức ăn uống đến sự đối xử vẫn khác nhau, tuy là một nước, theo như thế gọi là PHONG THỔ mỗi nơi.

Nhân Loài sống trên Lòng Đất Mẹ nhiều hơn hết, nơi nào hoặc xứ sở nào lòng đất êm ả phì nhiêu cây cối thạnh mậu thì dân tình nơi xứ sở ấy được ấm no lành mạnh. Bằng nơi nào hay xứ sở nào lòng đất khô khan, cây cối cằn cỗi thì dân tình nơi đó đói khổ, hung bạo khô khan tình cảm. So như trên để biết rõ ràng Nhân Loài cuộc sống do Vũ Trụ điều hành, còn trái Đất trợ cấp các CHẤT PHẨM.

Căn cứ những điều nói trên mới biết được sự ấm no an nhàn của Nhân Loại do Vũ Trụ và trái Đất quyết định. Từ hàng triệu triệu năm về trước Vũ Trụ cùng trái Đất Đảm Nhiệm hóa sinh, bổn phận nuôi dưỡng nhân loài vạn vật, nhưng mãi sau lần sự đảm nhiệm không còn nữa, chính nhân loài phải tự sanh đẻ lấy, vạn vật cũng phải tuần tự đảm trách việc sanh sản với nhau, cho đến Hoa Quả cũng tự lập gieo giống ương trồng phát triển, đối với nhân loài vạn vật biết được chính mình đang nương nhờ Vũ Trụ và trái Đất dưỡng nuôi thì trái Đất nầy chậm HOẠI, bằng tự hào rằng mình đào tạo ra cái sống, thời mình cứ đào tạo xem thử có phải càng đào tạo bao nhiêu lại càng đem cho Nhân Loài cam khổ bấy nhiêu chăng? Rồi đây trái Đất chóng HOẠI.

Đứng trước bối cảnh HOẠI-KHÔNG làm sao tránh được? Đứng trong giai đoạn tự lực mới có ăn, tự cường mới giàu mạnh, lại thêm vào đó Nhân Loài phát triển KHÔN HOANG gấp triệu lần thời trước do sự Khôn Hoang ấy mà những sự nào nghĩ thì cứ làm lấy Có, lấy Được chớ chưa hề suy nghĩ trước sau ngoan ngoãn tiến hành tìm ra lẽ sống cho Nhân Loại. Khi trái Đất RẠN, lòng đất RÊM thì Cơ Giới và Khoa Học ra đời cốt giúp cho Nhân Lực đỡ sức, nhưng cơ giới càng tiến hóa bao nhiêu thì KHÍ GIỚI càng thịnh hành bấy nhiêu, vì sao? Vì cơ giới quật khai các HẦM MỎ dưới lòng đất, để tự cường giàu mạnh tài nguyên trong nước, cứ một nước khai thác thì tất cả thi nhau khai thác, từ lý sự Khôn Hoang đến mánh lới mưu mẹo của một nước thì trăm nước cũng đều khôn hoang mánh lới mưu mẹo, nó có như thế nên KHÍ GIỚI nước nào không muốn tạo cũng phải tạo, không có ý chí phòng ngừa cũng phải phòng ngừa xâm chiếm. Đứng trước thời HOẠI-KHÔNG chẳng khác nào đứng trước cơn bão tố, nó chỉ biết lợi trước mặt chớ chưa biết đến sự nguy hại về tương lai, nó cứ tiến triển giàu mạnh bao nhiêu thì khí giới càng hùng hậu bấy nhiêu, trái Đất kia bị tàn phá bấy nhiêu, nhưng Nhân Loài và các nước nào có biết.

Còn về KHOA HỌC mục đích giúp cho Nhân Loài, từ vật chất đến tinh thần sung mãn, nền văn hóa văn minh mở mang trí hóa, nhờ nơi tích cực nghiên cứu thực nghiệm, Khoa Học mới tiến đến Siêu Đẳng Hư Không Vũ Trụ, khám phá các Hành Tinh từ nơi khởi điểm, mục đích của khoa học rất cao đẹp, nhưng kết chung khoa học vẫn theo chiều hướng KHOA HỌC và KHÍ GIỚI TỐI TÂN, vẫn cạnh tranh cải tiến, chẳng hơn kém chi với cơ khí thành KHÍ GIỚI, đến mức độ ngày hôm nay phát triển các LÒ HẠCH TÂM NGUYÊN TỬ cùng khắp.

Thật chua chát thay nhân loài trong thời HOẠI, tất cả trên Thế Giới đồng một định hướng xây dựng nếp sống cho Nhân Loài an lành cùng sung sướng, nhưng thời Hoại-Không nó nào có để mục tiêu của Thế Giới thành tựu, Thế Giới tính một đường thì nó lái đi một nẻo, càng cải tiến bao nhiêu thì dân lành chịu cơ cực bấy nhiêu, có phải chăng CUỘC SỐNG NHÂN LOÀI DO VŨ TRỤ ĐIỀU HÀNH, trái Đất cấp dưỡng. Tình trạng cạnh tranh cải tiến của khoa học, các Nước phải lên tiếng nhiều lần, đồng thời kêu gọi hạn chế HẠCH TÂM, như thế đủ biết, chính họ cũng đang lo về sự DIỆT VONG. Nhân Loại hay tàn sát nhân sanh, trong hai mục tiêu đó chắc hẳn có một.

Các ông nên biết. Tất cả Nhân Loài sống phải nương nhờ theo trái Đất cùng Vũ Trụ, nó nhịp nhàng theo TỨ THỜI di chuyển. Khi trái Đất trong thời THÀNH-TRỤ chính là thời kết nạp của trái Đất nó rất liên hệ đến Nhân Loài. Nhân Loài sống trong lúc thời Thành- Trụ dù muốn hay không tâm ý thảy đều ưa chuộng Thân Hữu với tất cả mọi người, họ rất sợ thù hận nhau mích lòng làm mất Thâm Tình với nhau. Họ cùng tất cả mọi người chung quanh thường sum hiệp, trìu mến tình của Nhân Loài không bao giờ làm sứt mẻ nhau. Họ chưa biết đến sự giành giựt từng miếng ăn manh áo chi cả, họ cũng chưa thấy có bệnh tật gì, mỗi một lời nói hoặc cử chỉ chi thảy đều kết nạp.

Đến Hoa Quả Cây Trái đầy đủ phẩm chất sung túc, thành thử bồi dưỡng cho Nhân Loài mạnh khỏe tuổi thọ được tăng cường. Sau lần qua thời HOẠI-KHÔNG hoa quả cây trái thiếu kém, phần thì Lòng Đất mất tất cả Phẩm Chất vì trái Đất cứng đồng thời khô khan. Thực Phẩm thời THÀNH-TRỤ kết nạp đến thời HOẠI-KHÔNG yếu kém thu hẹp lại lần cho đến chừng nào Nhân Loài chẳng còn đồ Thực Phẩm của thiên nhiên thì chừng đó nhân loài phải biến chất tự chế ra thực phẩm để tiêu dùng, trái Đất này cũng hóa ra như Đá. Tôi nói như thế cho các Ông nhận rõ, một khi Vũ Trụ và trái Đất đảm nhiệm bổn phận thì nuôi dưỡng nhân loài, đến lúc Nhân Loài tự cường tự lực tăng bao nhiêu thì nhiệm vụ của trái Đất giảm xuống bấy nhiêu, đến hết trách nhiệm Nhân Loài phải Tự Túc lấy. Nếu Nhân Loài hóa sanh trong thời THÀNH-TRỤ mà Tâm Ý mong muốn cho mất tình cảm, hành vi phá tan để cho HOẠI-KHÔNG cũng không thể đặng. Bằng Nhân Loài sinh vào thời kỳ HOẠI-KHÔNG mong mỏi cho kết nạp thành tựu y như thời Thành-Trụ cũng chẳng được nào, đây chính là lời Tôi nói rất thành thật, không phải Tôi nói ra xuôi Nhân Loài Tiêu Cực, nói ra để cho Nhân Loài Thế Giới giảm bớt cạnh tranh, dụng Cơ Giới phục vụ đời sống thừa của Nhân Loài, dụng Lý Trí khôn ngoan cốt thương tình Nhân Loại, chớ nên dùng Lý Trí, nuôi dưỡng trăm sự NGHI NGỜ làm cho nhau phải khổ”.

Thiền Sư nói đến đây, nhìn đám mây đang long lờ bay trước Thảo Trang, gió nhẹ đưa qua từng cành lá, suối trãng chùa nghèo lòng chúng tôi man mác giữa thời Hoại-Không nhân loại, hôm ấy trời thanh, Thiền Sư nói tiếp: “Nhân Sinh thế cuộc đang nằm trong bài toán khó giải, chỉ vì cái khôn chưa đúng chỗ nên mới xảy ra thế sự Ý THỨC HỆ thi đua, khi mà có một bên được thì thử hỏi họ đã được những gì? Hiện tình ngày nay có đa số muốn ngừng, nhưng chưa được, mong đứng thì đứng chẳng yên, bởi do thời HOẠI-KHÔNG diễn đạt.

ĐẠO PHẬT với KHOA HỌC, Đạo Phật biết dùng đúng chỗ, biết chính mình bị khổ đau, nên không dám làm cho bất cứ một ai đau khổ. Biết mình cùng chung quanh mọi người thảy đều có Bản Chất như nhau Bình Đẳng do bởi Tướng bất bình đẳng trở thành giai cấp khắc biệt. Biết mỗi Nhân Loài đều sẵn có đầy đủ CHẤT không sai khác với VŨ TRỤ nhân loài đứng trong Vũ Trụ nhân loài nhỏ nhất, nếu nhân loài giải tỏa ĐẶC CHẤT. ĐẶC TƯỚNG tỏ thông thì làm chủ vũ trụ. Cho nên mới nói: Vật chi nhỏ nhất, biết sử dụng nó sẽ lớn nhất, cứ kể những hạt Hư Không đến Nguyên Tử Chất, chính ta nhìn chưa thấy nó, thế mà Hư Không Hóa Sinh ra Vũ Trụ, nguyên tử tàn phá cơ đồ. Từ ngày Nhân Loài KHOA HỌC tìm đặng chất Nguyên Tử, chỉ biết nó có sức mạnh tàn phá một vùng rộng lớn, hoặc giả biết nó chính là một chất làm cho các chất cấu kết phải vỡ ra. Chớ nào có biết đương thời Hoại Diệt của trái Đất nó ra đời để chỉ điểm nhân loài đến nơi HOẠI-KHÔNG Tận Thế.

ĐẠO PHẬT nhìn xa thấy rộng chung kết của Vũ Trụ Nhân Loài mà chính Đạo Phật xây thành đắp lũy Bản Thân của Nhân Loài căn bản đầy đủ TRÍ GIÁC, Đạo Phật đưa cho Nhân Loài TỒN SANH vì nhân loài đang bị HÓA SANH, Đạo Phật làm cho Nhân Loài THÂN HỮU vì nhân loài lầm nơi Cá Tánh Cá Nhơn, cạnh tranh Nghi Ngờ xa cách.

Đạo Phật biết rất rõ những vật vô tri đang nằm dưới LÒNG ĐẤT MẸ như các hầm mỏ còn dùng các chất, chất than, chất đồng, chất sắt để hòa theo hư không tạo thành không khí bồi dưỡng cho nhân loài khỏe mạnh thay, huống chi Đạo Phật chẳng giúp cho nhân loài? Đạo Phật đã từng thấy rõ các loài THẢO MỘC cây cối tại rừng hoang, nó vẫn phụng sự cho nhân loài, cứ mỗi buổi sáng tỏa ra hơi thở đầy đủ các chất hòa với hư không tạo thành Không Khí, trong chất không khí của cây rừng chính là một thang thuốc trường sanh cứu nhân loài khỏi có bệnh, huống chi Đạo Phật lý thuyết suông không giúp cho nhân loài?

Các Ông cũng nên biết: Nếu như Nhân Loài thực hành đúng theo chương trình của Đạo Phật thì nhân loài được Thoát Sanh hiện tại, khỏi cần chi đi lên cung trăng hoặc các Hành Tinh để tìm một THẾ GIỚI mới? Đối với Khoa Học đã từng biết trái Đất sẽ HOẠI- KHÔNG, Khoa Học vẫn tin tưởng ngày mai TẬN THẾ, dù cho khoa học tìm được thế giới trên các hành tinh đưa nhân loài lên thế giới mới chăng nữa, thì chưa chắc nhân loài đã hợp với Khí Hậu mà đặng sống trên thế giới ấy. Vì sao? Vì mỗi Hành tinh có mỗi CHẤT KHÍ khác nhau nên chi khó sống được.”

Lúc bấy giờ chúng tôi thảy đều nhìn được, thấy được sự HOẠI-KHÔNG, đương thời nhân sinh sống trên hoại không, nó chẳng khác nào tất cả nhân sinh đi trên chiếc thuyền sắp tan rã, nhưng họ nào có hay biết, họ vẫn nhảy múa, hò hét đánh vã với nhau, họ càng nhảy bao nhiêu thì chiếc thuyền kia bị rạn nứt bấy nhiêu, chính chúng tôi cũng chẳng biết nói sao hơn, chỉ mong mỏi cho nhân loài AN LÀNH thôi ngừng múa hát. Chúng tôi liền bái tạ Thiền Sư đồng ra về, hồi tưởng lại chúng tôi đã gặp đặng Thiền Sư, khi vị Thiền Sư đã nói.

LONG HOA HỘI THƯỢNG
TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN
Viết xong ngày 26-08 Bính Thìn
(19 tháng 09 năm 1976)

6. HƯ KHÔNG HOÁ SINH VŨ TRỤ VÀ NHÂN LOÀI

Sáng hôm sau chúng tôi đồng đến, nhìn thấy Thiền Sư ngồi nơi hạ hiên dưới cây táo, vườn A Đề, xã Vĩnh Ích, thôn Vạn Thuận, ấp Tân Đảo, địa hạt tỉnh Khánh Hòa, sau nầy đổi lại là tỉnh Phú Khánh. Nơi Ngài đang ở là một khu rừng vừa khai phá độ bốn năm, trên lưng đồi gần chân núi, trước mặt nhìn ra biển, sau lưng là hòn núi Voi, phong cảnh tuy chưa đặng hoàn tất, nhưng không kém vẽ đẹp của thiên nhiên. Thiền Sư thấy chúng tôi đến tỏ vẻ vui, mời chúng tôi dùng trà miền núi chế, kể thì không ngon lắm nhưng hương vị dễ dùng.

Chúng tôi nhìn Thiền Sư ngồi trầm ngâm như định hướng, phần chúng tôi cũng hồi tưởng câu chuyện hôm qua, Thiền Sư nói: “Tôi đã kể các ông nghe, từ ĐẶC CHẤT động vọng tạo thành ĐẶC TƯỚNG thọ nhiễm, cái Thấy Biết nó không ngoài Đặc Tướng, phát sinh nhiều tư tưởng bất đồng tạo thành vạn lẽ sống, nếu bậc nhiếp thu trở về Đồng Chủng gọi là ĐỘ SANH, giờ phút nầy tôi bắt đầu kể cho các ông nghe, Hư Không Hóa Sinh Vũ Trụ cùng với Nhân Loài. Tánh của Hư Không mỗi nơi ứng dụng một khác, các ông cố gắng nghe.” Thiền Sư vừa nói đến đây thì chú Tiểu pha thêm trà bưng lên, Thiền Sư khoát tay kể tiếp:

“THỂ CHẤT là cái gì? Thể Chất là cái tận Biết bất diệt, không ô nhiễm, không trụ xứ thọ ngã, chẳng khác nào vị TRƯỞNG GIẢ quán xuyến hết tất cả Tòa Lâu Đài gọi là Vô Sanh Bất Diệt. Thể Chất quản lý Đặc Chất, Tướng Chất cùng Hư Không cho nên Hư Không tự sanh Tướng Hư Không, còn Vũ Trụ cùng các loài thảy đều BỊ SANH.

THỂ CHẤT với HƯ KHÔNG tuy là hai, nhưng nó lại không hai. Vì sao? Vì Thể Chất nó bất biến, còn Hư Không thường biến. Hư Không có Tướng, không có Thể, có TÁNH đồng với CHẤT gọi là TÁNH CHẤT của Hư Không. Đứng về nơi Nhân Thế trong vòng Thái Dương để giải cho rõ, Tánh của Hư Không là TÁNH ÉP, tánh ép đó khi có những vật chi đã thành hình như một tảng đá hay một tấm sắt đem để giữa hư không, tránh khỏi vòng quay của trái Đất hoặc các Hành Tinh thì tảng đá hoặc tấm sắt bị sức ép, đứng yên giữa hư không, chờ trong thời gian tự nhiên tiêu mất, có Tánh ép nên trái Đất chẳng phải hình tròn mà lại hình như quả trứng, nhận định như thế đủ biết hư không có Tánh ép.

Nhìn lên Hư Không thì có TƯỚNG CHẤT hư không RỖNG, chất rỗng đó nó Tự Hóa không có Bị Hóa. Nếu trong Thái Dương hoặc trong Vũ Trụ có một Hành Tinh nào đến thời bị tan vỡ, vừa nổ tung, hết đà sức vẹt của nó liền bị sức ép của hư không trở thành VI TRẦN đến KHÔNG TRẦN hòa vào hư không, rồi mới từ trong hư không hóa sinh ra. Chớ chẳng bao giờ hành tinh tan vỡ ra liền được hóa trở lại, khi mà hãy còn Tướng. Lúc hư không hóa sinh một hành tinh, thì nó cũng từ hạt nhỏ đến thành hình, hư không nuôi dưỡng có trọng lượng thời gian, đến hết trọng lượng thời gian liền bắt đầu Hoại.

Kể đến Hư Không hóa sinh Vũ Trụ, nó tùy từng nơi như THANH CHẤT hóa sinh, thì từ nơi chất Thanh THỂ BIẾN ra cảnh giới. Từ nơi Chất Thô thì từ nơi Thô kết thành, từ nơi HỎA CHẤT thì Hỏa Chất kết nạp, từ nơi THỦY CHẤT thì Thủy kết thành.

Trong Thái Dương Hệ, trái Đất đại diện cho ĐẶC CHẤT, Mặt Trời đại diện cho HỎA CHẤT, Mặt Trăng đại diện cho THỦY CHẤT, Hư Không đại diện cho RỖNG CHẤT, còn mỗi Hành Tinh tùy theo mỗi chất có đại diện của nó lập thành hệ thống mỗi Hành Tinh, duy chỉ có các loài hơn Vũ Trụ là đại diện cho TẠNG THỨC, Nghe-Thấy-Biết chính gốc của THỂ CHẤT, nhưng các loài bị lâm vào đồng hóa sinh trong Vũ Trụ, lầm nơi ĐẶC TƯỚNG qui chế diệt sanh, phải nhờ hơi thở không khí, thanh khí cùng ẩm thực của từng Cảnh Giới, từng các Cõi, từng nơi như trái Đất chẳng hạn”.

Lúc bấy giờ, chúng tôi nghe vị Thiền Sư nói đồng đứng ra thưa gởi: “Kính thưa Thiền Sư, Hư Không hóa sinh Vũ Trụ, trái Đất cùng các loài, hóa sinh bằng cách nào? Loài nào sanh ra trước? Nhờ Thiền Sư giảng giải cho chúng tôi được rõ”

Thiền Sư nói: “Tôi vừa trình bày trên, từ Vũ Trụ đến các loài, khi đang còn viên dung chưa có TƯỚNG thì có thể sửa đổi qua lại được, nếu trót bị mang vào TƯỚNG thì phải có GỐC đến NGỌN NGÀNH nơi nó. Cũng như các ông đang suy nghĩ định hướng làm một việc chi, hoặc suy tính xây cất nhà cửa thì đang lúc suy tính có thể sửa đổi ý định, hay giảm bớt hoặc thêm vào lớn nhỏ đặng, đến khi đã tạo thành hình thì khó thâu, khó nới, phải đập phá nó ra mà tạo thành cơ sở khác. Đối với hư không phải có TƯỚNG HƯ KHÔNG, trái Đất có TƯỚNG TRÁI ĐẤT, mặt trời có TƯỚNG của MẶT TRỜI, mặt trăng liền có TƯỚNG của MẶT TRĂNG. Các loài, loài nào thảy đều có Tướng nơi nó, nơi Tướng của nó liền đã có sẵn TUỔI THỌ của nó nên gọi là: Có Tướng có Qui Chế quyết định nơi Tướng, nên chi bậc Thánh Nhân nói: “Ý xấu, miệng chưa nói ra thì hãy còn đỡ, nếu ý xấu, miệng nói thì hơi tệ, nhưng hãy còn khá hơn Thân chưa làm, bằng ý xấu, thân làm nữa kể như hoàn toàn xấu hẳn.”

Nói đến Hư Không là một HÀM CHỨA tổng quát các chất, các tánh đồng với nơi NGHE-THẤY-BIẾT nhưng tại các loài chưa giao cảm thành thử nói Hư Không không có cái Biết, chính ra Hư Không vốn có cái Nghe-Thấy-Biết, cũng như quan niệm nơi hư không không có Lửa, trong chất hư không không có sức sáng, đến khi Cơ Giới tạo thành Máy Điện kết nạp hư không phát ra sức sáng và có lửa. Nếu Khoa Học tạo nên một hình thể con người cho đầy đủ bộ phận, đương nhiên con người nhân tạo đó liền có cái biết và đi đứng tiêu dùng không khác với con người hóa sinh, nếu các ông hiểu biết nhận thức lời tôi nói thì mới tin rằng Hư Không Hóa Sinh Vũ Trụ với các loài, bằng chưa nhận chơn được thì rất khó tin lời tôi nói là sự thật.”

Thiền Sư vừa nói đến đây in tuồng nhắc cho chúng tôi chú ý đến lời nói, nên Thiền Sư nói: “Các ông hãy nghe: Trước tiên Hư Không hóa sinh Vũ trụ, hoặc đã có Vũ Trụ rồi nay mới thành lập hóa sinh THÁI DƯƠNG HỆ thì Hư Không phải có một khởi điểm VI ĐỘNG trong một vùng rộng lớn, hư không biến chất mờ mờ trắng, thời gian chất mờ mờ trắng hóa chất trở thành VI KHÔNG TRẦN, dù cho chất mờ mờ trắng hay Vi Không Trần thảy đều có đầy đủ chất nơi đó cùng với Nghe Biết cũng đã sẵn có, nhìn con mắt ĐẶC TƯỚNG NHỤC NHÃN không thể nào thấy được.

Trong thời gian Vi Không Trần kết thành màu trắng nhìn thấy đặng, tánh nó sống động di chuyển cùng với lưu thông trong vòng thành tựu mờ mờ trắng đã nói trên, đến khi kết thành đông đặc thì cơ thể sống động của nó lại mạnh thêm tạo thành cơ động quay chuyển vòng tròn, cứ như thế mà quây trở nên đường quây, đến lúc Vi Không Trần kết thành khối lớn đông đặc bên trong thì bên trong là Vi Trần, bên ngoài vẫn kết nạp bồi dưỡng, khi đã thành hình cứng liền có tánh ép của Hư Không làm cho sức quây càng mạnh. Kể từ khởi điểm Vi Động đến kết thành Vi Không Trần cho đến có hình của đường quây khó định hướng bao nhiêu năm đặng, đến khi có chất loảng đông đặc trong đường vòng kính như cuộn mây sương Trái Đất phải là: Tám Trăm Triệu năm (800.000.000) gọi là một Nhịp Thời Gian đến Không Gian số tính. Đến lúc chất bên ngoài Đặc, lớp bên trong Cứng có sức hút, có hơi thở gọi là Thu và Thả hơi ra, ruột có chất nóng do bởi đường quây tạo thành thời con số tính phải thêm nơi đó là: Tám Trăm Triệu năm (800.000.000).

Cộng hai nhịp: Mười Sáu Trăm Triệu năm (1.600.000.000) gọi là Một Tỷ Sáu Trăm Triệu năm. Đến khi nó đã cứng bên ngoài, còn bên trong ruột của nó có chất cứng hơn KIM CƯƠNG, chất nầy đầy đủ sức hút hóa của hư không biến chất, nên nó có một chất chịu nóng cao độ nhất khó tả nổi, cộng thêm Một Tỷ Sáu Trăm Triệu năm (1.600.000.000) nửa trở thành trước sau là: Bốn nhịp là: Ba Tỷ Hai Trăm Triệu năm (3.200.000.000)”.

Thiền Sư kể đến đây hớp một chung trà, để chúng tôi kịp thời hồi tưởng lại đoạn trên Thiền Sư đã kể. Xong đâu đó Thiền Sư nói tiếp: “Nói về trái Đất nó có bốn thời kỳ, mỗi thời kỳ như vậy nó có bốn nhịp, mỗi nhịp là: Tám Trăm Triệu Năm. Thời kỳ thứ nhất gọi là thời kỳ THÀNH. Thời kỳ thứ hai gọi là thời kỳ TRỤ. Thời kỳ thứ Ba gọi là thời HOẠI, đến thời thứ tư gọi là thời KHÔNG. Trong mỗi thời kỳ Nhân Loài sống theo mỗi lối khác nhau, vì lẽ ấy nên nhân sinh có nơi sống về trái Đất nhiều hơn là mình tự sống, Nhân Sinh ảnh hưởng với Vũ Trụ cũng như loài cá nó có ảnh hưởng với nước vậy.

Kể ra trái Đất thời kỳ Thành thì Nhân Sinh và các loài bắt đầu hóa sinh, đến Mặt Trời Mặt Trăng cũng lộ diện. Mặt Trời Mặt Trăng có sau trái Đất là ba Nhịp: Hai Tỷ Bốn Trăm Triệu năm (2.400.000.000). Tại sao Mặt Trời, Mặt Trăng lại có chậm hơn trái Đất? Vì chất nóng nơi trái Đất cấu tạo thành Mặt Trời. Còn Chất Mát cấp dưỡng nơi Mặt Trăng thành thử có chậm hơn.”

Chúng tôi nghe qua rất ngạc nhiên. Vị Thiền Sư in tuồng đã biết, Thiền Sư mỉm cười, nhắc lại cho chúng tôi được nhớ rằng: “Các ông cũng nên biết, mỗi một Cảnh Giới hay các Cõi, mỗi cõi, mỗi cảnh giới do Giới Loài ấy làm trung tâm điểm, cũng như: Cõi Trời thì Thiên Loài chủ trì, Nhân Loài thì Nhân Thế làm chủ, vì vậy nên chi nơi Thái Dương Hệ nầy duy chỉ có trái Đất làm chủ còn MẶT TRỜI, MẶT TRĂNG đến Hư Không làm phụ thuộc để bồi dưỡng trái Đất. Do lẽ ấy nên chi trái Đất thành hình có chất loãng, đặc hơn VI KHÔNG TRẦN, lúc ruột nó đã cứng có đường quay của QUỸ ĐẠO bị Tánh Ép của hư không, tánh ép ấy có lợi cho trái Đất hai phương diện, phương diện thứ nhất làm cho trái Đất có động lực để quay mạnh, quay mạnh mới tạo ra Chất Nóng trong ruột trái Đất, hai là nhờ chất nóng mới có chất hút của hư không lại thâu được các vi trần cấu thành vỏ. Trái Đất đường quay càng tăng bao nhiêu thì THU và NHẢ khí chất của Đất ra bấy nhiêu. Đến tốc độ nào đó chất nóng bốc lên mạnh và cao thì chất nóng ấy nó buông tỏa theo vòng Quỹ Đạo, khi chất nóng bay cao quá vòng Quỹ Đạo gọi là chất HỎA KHÔNG TRẦN nó không chịu lệ thuộc của trái Đất tạo thành con đường vẹt hư không lên thượng tuần liền bị va chạm không gian trở thành đường Quỹ Đạo như quay vòng của trái Đất, trong thời gian cấu tạo gọi là MẶT TRỜI”.

Thiền Sư vừa nói đến đây, biết chúng tôi chưa hiểu, nên nói lại như sau: “Thế nào là chất HỎA KHÔNG TRẦN? Chất Hỏa không Trần chính là chất nóng trong ruột trái Đất phát ra, lúc bấy giờ chưa có ánh sáng Mặt Trời, chất nóng vừa phát ra gặp đường Quỹ Đạo bốc lên cao chạy vòng trên không khí 3.000 thước, một nửa bị hút xuống trái Đất làm cho trái Đất điều hòa còn một nửa vượt khỏi Quỹ Đạo, tạo thành một đường kính, chạy lên thượng tuần cấu tạo Mặt Trời.

Hỏa Không Trần có một đường kính vẹt hư không lên thẳng thượng tuần, nên nhớ rằng trong đường kính thuộc về Hỏa Không Trần, về phần ngoài đường kính bị TÁNH ÉP của hư không đẩy mạnh trở xuống trở thành chất Mát gọi là THANH KHÔNG TRẦN, Thanh Không Trần chạy mạnh xuống đến hết đường kính của Hỏa không Trần, nó lại tạo thành một đường kính ngược chiều cũng đến mức va chạm hư không trở thành đường vòng quay quỹ đạo cấu tạo thành MẶT TRĂNG.

Khi Ba khối đã thành hình, riêng về chất thảy đều có sự dung dưỡng nhau trong trái Đất, mỗi bên đều có sống động tự thu, tự nhả lấy mình. Phần MẶT TRỜI chủ về Hỏa Khí, bên MẶT TRĂNG thuộc về THANH KHÍ, trái Đất chủ về KHÔNG KHÍ, đến các Hành Tinh trong Thái Dương Hệ, mỗi hành tinh nó phải có một chất làm chủ của Hành Tinh mình. Do Mặt Trời, Mặt Trăng, trái Đất, cùng rất nhiều Hành Tinh đồng quay chuyển nên chi hư không mới có SỐNG ĐỘNG, nếu không có hành tinh, không có trái Đất, Mặt Trời, Mặt Trăng thì Hư Không nó chẳng có Sống Động, có sống động như thế nên chi trong một vùng tạo thành chất QUẢN KHÍ, chất quản khí là một chất bao bọc THÁI DƯƠNG trở nên biên giới của một Cõi, dù cho Nhân Loài có cơ giới cực kỳ tối tân cũng không thể nào qua lọt được vòng Quản Khí.

Sau đây tôi kể các ông nghe Nhân Loài cùng các sanh vật hóa sinh, đồng thời tôi nói rõ về TỨ THỜI: Thành, Trụ, Hoại, Không của trái Đất, Nhân Sinh mức sống nhịp nhàng do ảnh hưởng trái Đất nhiều hơn là Nhân Sinh tự sống. Khi trái Đất bắt đầu HOẠI đến lúc nó sắp Hoại thì Nhân Sinh thay đổi mức sống như thế nào? Các ông hãy nghe cho rõ, Thiền Sư nói: Kể từ buổi ban đầu trái Đất vừa tượng hình chất Loãng của VI KHÔNG TRẦN thành hình chất Loãng đó, thì đã có sẵn các CHỦNG (giống) của các loài cho đến loài người không thiếu sót, vì sao? Vì Thể Chất đã có đầy đủ nơi hư không chất, hư không chất ngày hôm nay hiện ra các SẮC TƯỚNG thiên hình vạn tướng thảy đều có sẵn trong hư không chất, nếu không có sẵn thì không khi nào lộ tướng được, cũng như một Hạt Cam nó đã có sẵn cây cam trong Hạt Cam, đối với hư không chất không thể nào lấy cặp mắt NHỤC NHÃN hay PHÁP NHÃN cùng THIÊN NHÃN mà thấy được duy chỉ có HUỆ NHÃN mới thấy được. Khi dùng Huệ Nhãn nhìn thấy Loài Người buổi ban đầu đang thụ thai bằng quả trứng bay trên mặt đất lăn tăn, đến 12 năm (mười hai năm) mới nở sinh thân hình cao 2 thước 60 phân, lúc mới nở ra chỉ bay như loài cá bơi lội, sự hiểu biết rất kém cỏi, tuổi thọ đến 10.000 (mười ngàn) năm một thế kỷ (một kiếp) ẩm thực bằng sanh khí, thời nầy nhân loài được hóa sinh Vũ Trụ được nuôi dưỡng bằng trái Đất Sanh Khí thọ bẩm dồi dào nên tuổi thọ quá cao, đến chừng trái Đất càng đông hoặc cứng bao nhiêu thì Nhân Loài tuổi thọ lại càng giảm bấy nhiêu. Khi đã có từng ngọn Núi do hơi thở của trái Đất, chỗ cao nơi thấp bởi sự chuyển mình trái Đất thành hình, từ vi không trần kết nạp đến Vi Trần từ vi trần trở thành hạt cát cũng do chất Hỏa Không Trần Nóng Lạnh đồng hóa ra thành sạn đá, nổi trên trái Đất, có sự đồng hợp, đồng hóa kể ra không thể nào hết được.

Trái Đất có Bốn thời kỳ như trên đã nói, mỗi thời là Bốn Nhịp, mỗi nhịp là: Tám Trăm Triệu năm (800.000.000). Thời thứ nhất gọi là THÀNH, thời thứ nhì gọi là TRỤ, Thời thứ ba gọi là thời HOẠI, đến Thời thứ tư là KHÔNG, bốn thời ấy cộng chung tuổi thọ của trái Đất được: Mười hai tỷ tám trăm triệu năm (12.800.000.000).

Kể thời kỳ THÀNH của trái Đất, nhân loài mức hiểu biết quá kém, thua sanh vật của thời Hoại, chưa biết đến sự giao cấu, chỉ chuyên ròng trái Đất hóa sinh, do nơi hóa sinh hiếm nên chưa biết cái chết là gì cả. Đến cuối thời THÀNH thì nhân loài mới dùng chất ĐẶC như Sữa ở trái Đất tuôn ra, trong lúc nầy nhân loài mới bắt đầu hạ thấp cùng đi đứng bay chạy trên mặt Đất.

Bắt đầu thời kỳ đầu của TRỤ, nhân loài hạ thấp tuổi thọ còn: TÁM NGÀN TUỔI (8.000) một kiếp, nhân loài trí tuệ còn kém, chỉ biết nơi ăn chốn ở của mình, biết dùng các chất phẩm do trái Đất tuôn ra, họ rất vô tư, chỉ biết đồng Nhân với nhau thích thú, sau đương nhiên họ nhận biết được GIỐNG CÁI và GIỐNG ĐỰC, họ lập nhau có từng đoàn vui vẻ với nhau rất thân thiện. Còn nói về Giống Đực, Giống Cái họ tự thân với nhau, xa nhau thì nhớ chạy bay tìm với nhau, sau họ sống chung với nhau, trở thành vợ chồng, trong thời kỳ đầu của thời TRỤ.

Đến thời trái Đất TRỤ, thời nầy trên mặt trái Đất đã có Cây Trái cảnh vật, con Người cũng bắt đầu Tự Sanh, vẫn thụ thai nơi buồng trứng, nhân loài không còn bay nữa, nếp sống rất ưu tú, thanh nhàn, không lo nghĩ tư riêng, chưa có cây nầy của tao, ruộng kia của mầy. Nhưng cây trái nó có rất nhiều Sinh Tố, bổ dưỡng rất bền vững, thời ấy một Củ Sâm, dùng trợ sức khỏe đến 100 năm, một trái cây bổ đến hai, ba năm, mỗi thức ăn bồi dưỡng rất lâu bền, vì trái cây còn đủ màu mỡ và sanh khí sung mãn nên Nhân Loài tuổi thọ được cao.

Thời TRỤ là một thời sống không bắt buộc, không có lối TỔ CHỨC nào cả, đến trộm cắp hoặc thù hận chưa biết nó là gì, họ rất thảo ăn với nhau, họ ưa gần nhau trợ giúp bằng nhiều phương thức làm cho nhau vui, nói với nhau cho thích, hoặc rủ nhau hợp quần, vỗ tay, nhảy múa. Sau thời nầy đương nhiên họ biết gìn giữ cây trái để dành riêng, đến họ tự trồng của riêng, từ nơi riêng đó phải cho người coi giữ, thì bắt đầu tuổi thọ giảm xuống còn SÁU NGÀN (6.000) một kiếp từ nơi giảm tuổi thọ chỉ vì ảnh hưởng trong trái Đất thiếu sanh khí màu mỡ, nên Nhân Loài tuổi thọ càng tiêu giảm lần mãi, đến Thời Hoại thì tuổi thọ không còn bao nhiêu tuổi đã là một kiếp rồi.

Thời này gọi là: THỜI HOẠI, thời Hoại nó đã khởi điểm từ lâu lắm, chớ chẳng phải ngày nay mới bắt đầu của thời Hoại.

Thời Hoại kể từ khi có Cơ Sở Thống Trị thành lập NHÀ VUA, thời Hoại kể từ có các BỘ LẠC cai trị dân chúng, thời Hoại nó có thứ lớp khởi điểm từ ban đầu bé nhỏ đến lúc nó thành hình thật lớn lao, nó cũng như từ hư không quá nhỏ, khi nó có tượng hình nên Vi Không Trần rồi đến Vi Trần trở nên Vũ Trụ, đối với khởi điểm của thời Hoại cũng như thế.

Thời Hoại nó đem đến cho Nhân Loài Tự Lực, Tự Cường mới có cái sống, thời Hoại nó làm cho cứ mỗi khởi điểm của một thời Thống Trị Vua Quan, bày ra hết cuộc cờ nầy đến ván cờ khác của THẾ và SỰ cốt đưa Nhân Sinh đến nơi sanh Sống, nhưng rốt đến sống trong thời Hoại nầy dù sao nó cũng không hơn kém chốn HOẠI-KHÔNG.

Thời Hoại nhân loài có trí tuệ khôn ngoan hơn thời THÀNH-TRỤ, thời Hoại nầy mới có THÁNH-TIÊN cùng các bậc Siêu Nhân HIỆN TƯỚNG cốt để chỉ đường thoát sanh, cho nên nhân loài mới trỗi lên tu hành mong sao thoát khỏi Trần Lao tránh nơi HOẠI DIỆT, thời Hoại nầy những bậc hiểu biết rất ghê sợ lo cấu tạo PHƯỚC ĐIỀN, ĐỨC TÁNH cốt bảo tồn sanh mạng của thời Hoại nó thường đem đến cho nhân loài tai nạn bất chừng, ức oan chẳng đổi , lại giải tỏa hận thù cạnh tranh giành giựt.

Lúc bấy giờ có muôn ngàn Lý Sự hằng triệu nhân sinh khắp Thế Giới lo âu nơi Tử Sanh, Sanh Tử đều có chí nguyện cứu giúp nhau, bày vẻ nhau một là thoát khỏi trần lao, hai là đem đến cho nhân sinh cái sống an toàn. Từ Vua Quan đến Nhà Nước, nhất tề đồng Chủ Hướng cho toàn dân.

Thật trớ trêu cho thời HOẠI, càng lo bao nhiêu thời lại càng làm cho Nhân Loài cam khổ bấy nhiêu, càng sưu tầm thuốc hay bao nhiêu thì Nhân Loài mang bệnh nặng bấy nhiêu. Vẫn có nhiều bậc Siêu Phàm Thánh Nhơn, tìm đặng cái sống cho Nhân Loài lại BỊ SANH trong trường hợp CÔ THẾ. Còn kẻ chưa đem đến được chi lại vinh vang CHỦ THẾ, rất hiếm bậc sáng soi minh chánh tạo cho nhân loài thư thỏa thân tâm”. Vị Thiền Sư nói đến đây nhìn chúng tôi thầm lặng, để lãnh những gì cho nhân loài trong kiếp sống HOẠI-KHÔNG liền kể tiếp: “Các ông nghĩ xem, thời nào cũng có Thánh Xuất Thế, Vĩ Nhân trọng đại ra đời, mấy ai đã hưởng ứng nghe lời, lần hồi phải lặng lẽ ra đi, chỉ vì thời HOẠI nó làm cho Nhân Loài Thân Tâm trắc ẩn, chưa biết đâu đón chờ, do lẽ ấy nên bậc VĨ NHÂN hoặc Xuất Thế để lại một vài câu Kinh Kệ khuyên đời hay chỉ cho nhân loài nhìn thấy. Trong đó có một thời của KHỔNG TỬ đứng vào hàng Siêu Nhân chỉ dạy cho Nhân Loài nhiều thuật xử thế, nhiều lối ăn ở Nhân Cách từng thứ lớp, được Nhân Loài hưởng ứng rất nhiều. Tuy rằng thời nầy làm cho con Người Nhu Nhược, nhưng biết gìn giữ ĐỨC TÁNH tồn căn. Khi nhìn thấy Nhân Loài đang thắc mắc AI SINH RA CON NGƯỜI? Khổng Tử nói: “THIÊN SANH NHÂN, ĐỊA SANH THẢO”. Cũng như hôm nay tôi nói với các Ông: Hư Không Hóa Sinh Vũ Trụ và Nhân Loài, Tôi không phải dựa theo thuyết Đức Khổng Tử, nhưng Tôi chỉ lại, bậc Siêu Nhân đã nói: “Trời sanh Người, đất sanh cây cỏ” đó cũng là một chứng từ cốt cho Nhân Loài tin lời Tôi nói hôm nay là thật.

Qua các từng lớp Siêu Nhân, Vĩ Nhân, Thánh hiện thế, đến Phật ra đời, cứ mỗi lớp như vậy qua thế hệ bị xóa mờ, nhưng vẫn còn vết chân nơi lòng người nhân thế. Bậc mong làm trọn vẹn của kiếp Nhân Loài luôn luôn cải tiến, nhưng luôn luôn nhìn nhận những lời vàng ngọc của Siêu Nhân. Các ông cũng nên nhớ rằng: Đống rác kia tuy nó bẩn, nhưng nó cũng còn giúp ích làm phân bón lúa, huống chi lời của Siêu Nhân há vứt bỏ hay sao? Thời Hoại là thời Cai Trị nó đặt để từ lâu trở nên hệ thống quen thuộc của Nhân Loài, nó phải diễn ra từng lớp của nhân loại. Buổi ban đầu Loài Thú biết ăn thịt nhau, con lớn ăn loài nhỏ, đến Con Người cướp thân con thú để ăn thịt, sau đến Loài Người ăn Con Người, lúc đó thì HOẠI DIỆT càng tăng cường bóc lột, tăng cường hung bạo, tăng cường đè ép để giành xác nhau mà ăn.

Đến thời ĐỨC PHẬT BỔN SƯ hiện thế tại Ấn Độ, lúc bấy giờ nước Ấn có hai giai cấp khác biệt giai cấp Vua Quan và giai cấp Nô Lệ, giai cấp của Vua Quan chưa ăn bằng thịt của phái Nô Lệ, nhưng ăn bằng Sanh Lực, một kiếp nhân loài nô lệ.

Đức Phật mới dùng phương thức hóa giải phá hai giai cấp trở thành bình đẳng, đồng thời đem Chân Lý đến cho toàn dân làm ngọn đuốc tự soi đến nơi sống Bất Diệt”, Thiền Sư nói vừa đến đây mặt trời gần đúng Ngọ, giờ Thọ Trai sắp đến, chúng tôi xin tạm biệt ra về, vị Thiền Sư đưa chúng tôi gần đến ngõ, chúng tôi hẹn chiều đến Thiền Sư gật đầu chấp thuận.

TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN

5. TẠI SAO GỌI LÀ ĐỒNG CHẤT ĐỒNG THẤY

Vì Toàn Thân của các Ông đầy đủ các TÁNH, cùng đầy đủ các CHẤT, từ TÁNH PHẬT đến Tánh các TIÊN THẦN THÁNH TĂNG hoặc Siêu Đẳng cho đến tận cùng MA QUÁI vạn loài Súc Vật Cầm Thú trong Vũ Trụ có Tánh chi thì các ông thảy đều có những tánh ấy, cho đến các CHẤT nó cũng như thế.

Do những Tánh Chất ấy nên chi có BA BẬC nhìn thấy khác nhau. Bậc Nhân Loài nhìn thấy chính mình BỊ SANH, mức sống nơi mình BỊ HOÀN CẢNH bao vây. Bậc tu trong Đạo Phật gọi là BỒ TÁT HẠNH, hay BỒ TÁT NGUYỆN thời nhận thấy chính mình BỊ LẦM trong vạn pháp, mức sống bị vạn pháp quây quần, từ Nội Tâm đến Ngoại Cảnh bao vây. Còn bậc PHẬT Thấy, tất cả đều là Chư Phật, tất cả Chư Bồ Tát phụng hành Hạnh Nguyện di chuyển điều động Như Lai, không có chi là Hoàn Cảnh hay Vạn Pháp. Ba bậc nhìn thấy trên hoặc giả các Nhân Sinh mỗi Người, mỗi Bậc hay mỗi Kẻ, tuy ăn ở chung nhau nhưng cái Thấy nó khắc biệt nhau, chỉ vì ĐỒNG CHẤT ĐỒNG THẤY, hay Đồng Cảnh liền thấy hoặc Đồng Tánh Đồng Thấy.

Đứng trước tình trạng khó hiểu nhau, khó rõ nhau bởi tại ĐỒNG HỘP ĐỒNG HÓA, đồng hộp thì NGHE-THẤY-BIẾT hiệp nhau, nếu BẤT HỘP thì phát sinh Chướng Đối đủ cách, do đó tự nó sinh cảnh đời phiên diễn từng lớp lớp, làm cho nhân loài hộp ứng vui tươi, chưa hộp thì thờ ơ mong chờ Cái Sống, nếu không hộp nhìn thấy nó trái ngang kình cãi, nó cứ như thế kéo dài.

Sự Đồng Chất Đồng Thấy, nơi Bất Hộp Bất Hóa nó có như vậy nên chi đôi lúc xảy đến tình trạng khó hiểu là: Có bậc tu trì thành tựu Tánh và Chất Tiên Thần liền được thấy Tiên Thần, nói lại với kẻ khác, kẻ ấy muốn thấy, nhưng bất hộp làm sao thấy được? Có người thường gặp Ma, thường thấy Ma thì Tánh và Chất của kẻ đó thường đồng hộp Tánh Chất của loài Ma nên chi hay thấy. Vì sự Đồng Hộp đó nên bậc Tu Phật chuyên chính mới thực hành TỨ NHIẾP, làm thế nào cho mình Phù Hộp với tất cả mọi từng lớp, gọi là ĐỒNG HÓA NHÂN SINH, nhờ thi hành như thế nên thành tựu thâm nhập Như Lai Tạng, tỏ rõ Vũ Trụ Nhân Loài mà Giác Ngộ.

Các Ông cũng nên nhớ, một Nước bất đồng do TÁNH CHẤT chưa hiệp, đứng tư thế Bạn Bè đến Gia Đình thường cải cọ gây gổ, chưa tạo đặng thân thiện yên vui, chỉ vì chưa Đồng Tánh, chưa hiệp Chất để có sự giao cảm với nhau nên nó như thế”.

Vị Thiền Sư nói đến đây trầm ngâm chốc lát bèn nói tiếp: “TÁNH với CHẤT huân tập tạo thành một pháp môn XUẤT ĐỊNH, khi Tánh thuần túy nói năng tao nhã tư cách đoan trang thanh thoát Tâm Tư, lúc chủ định được sự Đồng Thanh Tương Ứng thời cứ lượn theo tánh chất cấu tạo thành hình Tiên Giới, Thần Giới thì ngay thẳng rộng rãi bao dung, khí phách trung trực, nhưng không làm mất Thanh Chất, lúc chủ định được đồng thanh tương ứng thì cứ lượn theo tánh chất mà thành hình Thần Giới. MA GIỚI cho đến NHÂN GIỚI thì phải tánh tình không chừng chẳng đổi, muốn làm cho mình trở thành DỊ NHƠN quái đản, sau đồng thanh tương ứng trở thành MA GIỚI. Bằng Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, hoặc lề lối ăn ở cho vừa lòng NHÂN ĐẠO tất cả Nhân Sinh, chẳng cần chi tu vẫn tái sinh tại Nhân Thế.

Các Ông cũng nên biết Tánh Chất hộp hóa nơi ĐẶC TƯỚNG thì rất dễ, duy chỉ dùng nguyên liệu nầy pha chế với chất kia nó liền biến chất hộp hóa ra thứ khác. Chớ đối với Nhân Sinh tư tưởng ĐẶC CHẤT phải biết đối xử như thế nào, ăn ở làm sao mới trở thành hộp hóa, cứ để như nhiên hoặc tự nhiên nó hộp hóa thật là rất hiếm, nên ở giữa đời tìm một Tri Kỷ không ra, ở trong Đạo Hạnh tìm bậc biết nhiếp thu TÁNH CHẤT hộp hóa chung khắp mọi từng lớp rất là khó gặp. Bậc tu thiền Tọa huân tập để Xuất Định dạo khắp các cõi phải chính mình chỉnh trang làm sao Đồng Chất Hộp Hóa hàng phục Nhân Loài, Thiên Loài, Tiên Loài thì chừng đó mới Xuất Định ra vào các Cõi các Cảnh Giới, chớ cứ mộng tưởng Thiền Tọa đem thần thức, hoặc dùng hoa quả cây trái làm Ẩm Thực cho nhẹ nhàng thân xác mà xuất định, thì thật là tu nơi ảo tượng”.

Lúc bấy giờ nhân loài đồng thưa gởi:“Kính thưa Thiền Sư, chúng tôi chưa minh xác được, trước Thiền Sư nói, tất cả những cảnh Tiên những cõi Chư Thiên, không qua lại nhau được chỉ vì bị biệt, dù cho có thần thông đến đâu cũng khó mà biết nhau, nay Thiền Sư lại nói Đồng Hộp Đồng Thấy, thì nơi thấy đó có thật Tiên Thần chăng? Hay do Định Tưởng mà thấy? Mong Thiền Sư giải cho chúng tôi được biết”.

Vị Thiền Sư nghe chúng tôi thưa hỏi, Ngài mỉm cười vui vẻ đáp: “Tôi khá khen cho các Ông chịu khó theo dõi, đồng thời thưa hỏi những điều ích lợi để đời nầy cùng đời sau được rõ. Vậy thì tôi sẽ nói những điều chân thật để các ông biết thêm và sau nầy họ minh xác đúng đắn,” Ngài liền kể tiếp: “Sự thấy biết thật hay chưa thật tùy theo thứ bậc thấy biết TIÊN THẦN, chẳng khác nào bậc giải tỏa Đặc Chất rốt ráo THỂ CHẤT, tinh vi chẳng còn cặn cáu suốt suốt viên dung thì bậc nầy gặp Tiên Thần hay ra vào Cảnh Giới đều là chân thật không sai mảy may nào cả. Còn bậc chưa giải tỏa Đặc Chất tâm hãy còn Nghi Ngờ, lòng chưa tỏ rõ suốt suốt, chí còn phân vân chỗ nầy, nơi nọ, hoặc bên kia, bên khác thảy đều nằm nơi ĐỊNH TƯỞNG Thấy Biết thì bậc nầy có gặp Tiên Thần hay ra vào Cảnh Giới đều là ĐỊNH TƯỞNG chưa phải là chân thật.

Lại nữa: Tiên Thần khi đã THỤ TƯỚNG bị hóa sinh trong Cảnh Giới của Tiên hoặc Thần cùng là Thánh hay ở Cõi Trời cũng thế. Thụ Tướng tức nhiên thực thụ Thân Tâm thì phải chịu chung vào Giới Hạn của Cảnh Giới đó mất hết 80% chỉ còn 20% thanh thoát tự do nơi chính mình không có sự ràng buộc, tuy chỉ có tự mình ràng buộc lấy mình nơi tư tưởng phiền não hay nơi hoài mong không chứng từ thực tế, không khác mấy với các Ông đang ở nơi Nhân Thế nầy vậy.

Nhờ có 20%, không ưa thích Cảnh Giới nơi mình đang ở thì từ 20% cấu tạo huân tập Đặc Chất thanh thoát hay giải trừ đặc chất cốt thu nhận THỂ CHẤT thành tựu theo nhu cầu, theo sở nguyện mà thành tựu, gọi là Thoát Sanh hay Giải Thoát Sanh Tử Luân Hồi. Nếu có 20% không biết nhơn cơ hội 20% là đường lối thoát sanh, cứ sinh ưu tư than phiền khổ não tự đem thân mình hủy hoại, sau khi mạng chung phải bị sa đọa, cho nên tất cả Cảnh Giới hay các Cõi đến Nhân Thế họ chỉ nắm bắt được THÂN MẠNG chớ không bao giờ nắm bắt được tư tưởng Giải Thoát của mình. Từ trong tư tưởng giải thoát đó do mình phải đào tạo lấy, nó không khác nào KHO TẠNG chính nó là chân thật CỦA MÌNH.

Khi bậc tinh vi THỂ CHẤT chẳng còn cặn cáu 100% đều Thể Chất rốt ráo Bát Đại Niết Bàn thì ra vào các Cõi các Cảnh Giới, đến một nơi nào liền HIỆN THÂN y như người Bổn Xứ, nói năng đi đứng đồng chất, đồng tánh với Cõi, với Cảnh Giới đang đứng trước mình không sai tí nào cả. Bằng có vị Thể Chất đào tạo đặng 80% thì vẫn an nhiên, nhưng đôi lúc chưa thật minh xác, ít tự tại hơn bậc trên. Nếu có vị được 60%, thì sút kém hơn vị trên, nó cứ như thế mà tỏ rõ hoặc chưa tỏ rõ, do nơi Đặc Chất trọng lượng của Công Năng mà trở thành thật hay chưa thật. Bằng có một thường nhân bất chợt gặp hoặc nhìn thấy lúc chiêm bao, thì do thường nhân nầy đã từng có Tánh Tốt, đến giai đoạn Tánh Tốt ấy nó trỗi dậy đương nhiên chiêm bao gặp phải. Theo những lời tôi nói trên thảy đều là một sự minh xác chắc chắn, các ông nên giải tỏa các ĐẶC CHẤT trong thời các ông còn vương mang Nhân Thế, nếu nhận thấy được 20% số vốn giải thoát của mình thì nên nghe theo Tôi mà xuất giải tỏa Đặc Chất, Thân Tâm Thanh Thoát, sự ràng buộc Nhân Thế không quan hệ, LÒNG MÌNH TỰ BUỘC LẤY MÌNH RẤT QUAN HỆ, sự giàu nghèo khổ sướng không quan hệ, tự mình hoài vọng cưu mang thất vọng đó mới là quan hệ”.

Lúc bấy giờ vị Thiền Sư nhìn qua chúng tôi thấy chúng tôi chăm chú lãnh hội, Thiền Sư gật đầu nói tiếp: “Tất cả mọi việc từ Thế Gian đến Xuất Thế Gian thảy đều có mục tiêu bằng chứng, có một khởi đầu rồi mới đến kết chung, chớ chẳng phải đương nhiên hoặc tự nhiên mà nó đến nơi toàn thiện mỹ, ít nhất những bậc muốn cho trình độ nơi mình được tăng trưởng hoặc Thấy Biết tường tận phải giải tỏa tư tưởng xằng bậy, phải làm thế nào nhìn xem các tư tưởng lý trí của bạn bè hay kẻ chung quanh mình, một là học hỏi, hai là nhiếp thu đồng hộp đồng hóa, đó chính là ĐỘ SANH. Đứng trước sự hiện diện với mình mà mình làm thế nào đồng hộp cho đúng với tinh thần kẻ khác là một việc làm rất khó, hai nữa mình đồng hóa cho họ lại càng khó hơn, những bậc như thế gọi là: THÁNH.

Sự đồng hộp đồng hóa giữa THÁNH TĂNG và NHÂN LOÀI chẳng biết bao nhiêu là công trình còn khó hơn gấp Mười lần làm Bộ Máy tiếp nhận Khoa Học, đến nỗi Tổ BỒ ĐỀ LẠC MA cứu giúp Vua Lương Võ Đế bằng Bảo Pháp Tối Thượng. Vua Lương Võ Đế nghe không nổi mà Tổ phải day mặt chín năm chỉ một câu nói, đủ biết những câu nói khó nghe khó hiểu mà chính mình nghe hiểu được mới thật là quý. Ngày hôm nay tôi sẽ trình bày để các ông hiểu biết, từ nơi nhận định của Nhân Sinh về Hư Không Hóa Sinh Vũ Trụ và Nhân Loài”. Thiền Sư vừa nói đến đây trời đã sắp tối, chúng tôi tạm biệt hẹn ngày mai đến hầu tiếp.

TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN

4. KHI VỊ THIỀN SƯ NÓI

Vị Thiền Sư nói: “Thật TA biết rõ, thật thấy tận tường minh xác. Mỗi một kiếp luân chuyển hóa sanh vạn lối trong một kiếp, vẫn mỗi một kiếp HÓA GIẢI trở về với THỂ CHẤT BỔN LAI trong một kiếp. Huyền diệu thay! Linh động thay! Từ lúc Cha Mẹ sinh ra TA, ta sống nơi ĐẶC TƯỚNG bị sanh, ĐẶC CHẤT bị biết, Ta phải dùng đôi mắt NHỤC NHÃN, bộ óc Giới Sinh, đi, đứng, nằm, ngồi Giới Hạn, đến chừng Ta nhận thấy lòng Ta chưa vẹn vừa ưa muốn, nếp sống chẳng đúng nơi sở cầu với Ta, Ta mới tìm đặng phương thức giải tỏa Tư Tưởng ĐẶC CHẤT, huân tập THỂ CHẤT TỰ GIÁC về với chính Ta làm bộ máy GHI NHẬN chẳng tập nhiễm, nó liền tuần tự thay đổi theo nhu cầu khả năng hay tận lực do nơi Ta huân tập thành tựu. Đến chừng cái THẤY, chỗ NGHE đồng nơi BIẾT nó thay đổi lần lượt, nó tuần tự Biến Thể sau khi Ta đặng viên dung tỏ thông vạn pháp, đến thời CHU THÂN hoàn toàn THỂ CHẤT CHÂN NGUYÊN, chính Ta vẫn suy gẫm lạ lùng thay! Linh động thay! Nào ngờ, đâu ngờ nó có nhờ như thế nên không có chi là vướng đọng, chẳng có chi là tập nhiễm hay thường nhiễm. Ta ra vào các Cảnh Giới, dạo khắp các Cõi, chẳng còn nghi không có chi lạ lùng hơn kém, nó như thế mà Nhân Sinh thèm khát đòi hỏi sự thoát sanh lên cõi Tiên Thần thật vô ích”.

Khi vị Thiền Sư nói: “Các Nhân loài chẳng hiểu chi cả!”, họ đồng đứng lên thưa thỉnh: “Kính thưa Thiền Sư, Ngài vừa nói: ĐẶC TƯỚNG bị sanh là thế nào? ĐẶC CHẤT bị biết ra sao? THỂ CHẤT CHÂN NGUYÊN có lợi chi? Ngài ra vào các Cảnh Giới, các Cõi không tập nhiễm như vậy các Cõi hay các Cảnh Giới thật có hay không? Nếu có do đâu mà có? Mong Thiền Sư giải nói chúng tôi đặng hiểu biết, khỏi nghi ngờ, như nghi ngờ lời nói tất cả thảy đều Thuyết Giả”, thưa thỉnh xong đồng ngồi lại một bên.

Thiền Sư mỉm cười nói: “Các Ông nên biết, từ Nhân Sinh đến Tiên Rồng nói chung các cõi trong Vũ Trụ Sơn Hà thảy đều sống theo ĐẶC TƯỚNG Bị Sanh, vì bị sanh nên chi có đứng trước Cảnh các ông mới biết, bằng không đứng trước cảnh thì các ông nào có biết, gọi là sự hiểu biết nó không ngoài Đặc Tướng. Nó như thế nên chi nền văn minh tiến bộ của nhân sinh không ngoài SẮC PHẨM Vật Dụng. Nếp sống của con người nó không ngoài ẨM THỰC Vui Tươi, khi con người chẳng đầy đủ ẩm thực thiếu kém vui tươi thì con người kia sút kém nếp sống, sinh ra buồn khổ hoài mong, do nơi hoài mong đòi hỏi nếp sống đương nhiên suy tính nghĩ ngợi tạo thành ĐẶC CHẤT. Nơi Đặc Chất nó đứng về TINH THẦN, tinh thần bổn tánh nơi nó rất thoải mái, nhưng nó cũng rất ưu phiền sa đọa, do nó thoải mái nên tự nó tạo thành THANH CHẤT, bởi nó ưu phiền nên nó cấu thành ẨM CHẤT sa đọa vào Địa Ngục Súc Sanh, nó chính là nguồn gốc di chuyển trong lúc chưa ngã về đâu, đến lúc nó ngã vào nơi thực thụ thì nó là ĐẶC TƯỚNG Phẩm Vật hay Cảnh Giới, cho nên gọi nó là Tư Tưởng sanh ra Hành Động, nó chính là Mẹ Đẻ Đặc Tướng, vì nó như thế nên chi mới dùng TƯỞNG NIỆM để niệm Phật hay tin tưởng vào mình CHÚA CỨU THẾ. Đó chính là đem phương thức nuôi dưỡng Đặc Chất tư tưởng thành hình sau nầy thoát sinh lên Mình Chúa hay về với Cõi Phật, trên hình thức làm như vậy cho đở khổ nơi Dương Trần nầy thôi chớ chưa thật rốt ráo Tự Mình làm chủ lấy. Vì sao? Vì Đặc Chất cùng Đặc Tướng thảy đều bản chất hổn hộp, bản năng Thành Hoại Hóa Sinh chớ chưa phải đương nhiên Thực Thể.

Khi muốn giải tỏa hổn hợp không thực thể cần phải huân tập sống trong ĐẶC TƯỚNG không hoài mong thèm khát Đặc Tướng. Phát sanh từng tư tưởng cốt tỏ biết tư tưởng Đặc Chất nghiệp căn, nghiệp lậu Kiết Sử chung tất cả tư tưởng phức tạp, tư tưởng thanh thoát, tư tưởng cấu tạo thảy đều biết rõ, biết rốt đến không chấp trước, không chấp thủ, không sợ sệt chẳng ái ngại ngăn cách, gọi là Trí Tuệ Tự Tại. Đường lối đó chính là một đường lối huân tập nhiếp thu THỂ CHẤT. Thể Chất thì Bất Diệt cũng không Sanh, quán xuyến tất cả sự lầm mê từ trước đến nay vòng quanh nơi sanh tử, mãi nương tựa trong ĐẶC TƯỚNG bị sanh, Đặc Chất khởi sanh, khởi diệt cho nên Nghe-Thấy-Biết phải vướng trong vòng Pháp Giới.

Khi đã thật biết ĐẶC TƯỚNG và ĐẶC CHẤT là Pháp Giới vô lậu hữu hình, vô tướng lại thường sanh, vô giới nhưng thường vấp phải, vô chấp mà Cố Thủ, Vô Xứ lại mộng Niết Bàn, Vô Chứng đâm Tự Ngã, thật ra nó muôn hình vạn tướng chỉ vì nơi Đặc Chất cùng Đặc Tướng mà đem đến cho Nhân Loài chẳng biết bao nhiêu tưởng tượng trở thành Vũ Trụ Tam Thiên trong thế giới ngoài cảnh giới đồng với các cõi đều vướng nơi Đặc Tướng bị hóa sinh như thế. Đã được biết như trên, tâm không quái ngại, ý chẳng nghi ngờ, lòng không động vọng THỂ CHẤT BỔN LAI phát sinh Bát Đại Niết Bàn hay PHẬT cũng thế. Nơi phát sinh nó không phải như nhiên mà phát sinh, cũng chẳng phải tự nhiên đến phát sinh, vì vốn sẵn Bổn Lai nơi nó như vậy”.

Nhân Loài nghe qua liền thưa thỉnh: “Kính thưa Thiền Sư, theo chúng tôi được nghe, đồng thời nhận được, do Đặc Chất khởi sanh thành tựu Đặc Tướng hóa sinh cùng diễn hóa Vũ Trụ đến các Cõi Tiên Thần, như thế thì hư không vốn có tướng của hư không, vậy chớ THỂ CHẤT nó sẵn có trên tuần của hư không hay là nó sẵn có trong hư không? Hư Không Thể Tánh của nó như thế nào? Nhờ Thiền Sư giải cho chúng tôi được rõ”, thưa vừa dứt lời.

Thiền Sư nói: “Các Ông đã thưa hỏi, đồng thời nhận đặng lời TA nói thì các ông hãy nghe đây, HƯ KHÔNG cùng THỂ CHẤT vẫn ở sát liền nhau không rời nhau. Cũng chẳng khác nào các ông vốn sẵn có Thể Chất, khi các ông biết sử dụng thời Đặc Chất nọ chính là ngọn đuốc soi của các ông, lúc các ông biết dùng thì ĐẶC TƯỚNG ấy chính là Niết Bàn của các ông. Bằng chưa biết thì các ông phải cầu cạnh lấy nó, nó chỉ đưa các ông theo nhu cầu chớ không bao giờ cung đốn các ông được thoải mái, đến hết nhu cầu nó liền tan rã, vì sao? Vì vốn Thể cùng Tánh nó như thế.

Nói đến THỂ TÁNH của Hư Không nó rất linh động, nó tùy theo xứ sở để đáp ứng nhu cầu, có nơi nó Hóa Sinh ra Cảnh Giới cùng Vũ Trụ các Hành Tinh trong Thái Dương Hệ, còn có chỗ nó lại nhu cầu tùy theo Chánh Báo, tùy theo Thọ Báo, nó có đủ mọi cách đủ mọi phương diện đáp ứng. Như các TỊNH ĐỘ QUỐC ĐỘ cùng BÁT ĐẠI NIẾT BÀN thật vô kể.

Các Ông cũng nên biết: Chỉ có Hư Không là giàu có bậc nhất, vì sao? Vì cung cấp đầy đủ tùy nơi. Nếu có bậc Hoàn Giác THỂ CHẤT Bổn Lai thì cũng hư không đó mà Ứng Dụng đáp ứng đúng theo bậc Chánh Giác Bát Đại Niết Bàn. Bằng Cảnh Giới Chư Thiên đáp ứng giai cấp Chư Thiên, nếu là Cõi Tiên thì đáp ứng đúng với tinh thần Cõi Tiên, bằng Cõi Trời thì vẫn đáp ứng đúng theo nhu cầu Cõi Trời, nếu như Thế Gian thì đáp ứng đúng theo cảm hóa nhu cầu nơi Thế Gian.

Sự hưởng thọ tùy nơi, tùy giai cấp, tùy xứ sở, có nơi dụng Pha Lê, Trân Châu làm bảo vật, có chỗ dùng Xa Cừ Hổ Phách làm bảo vật, có chốn dụng Ngọc Bích Mã Não làm bảo vật, còn Nhân Thế lại dùng Bạc Vàng làm bảo vật, nơi quí báu có khác nhau, nhưng sự tiêu dùng đều giống nhau. Tất cả Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới, bất luận nơi chốn nào thảy đều do Hư Không kết hiệp mà thành, chớ chẳng nơi nào gọi là tự mình hóa sinh cả, chính mình chỉ hóa giải nơi Mê Lầm của mình đang bị, đến Giác Ngộ trở lại với Thể Chất mà thôi.

Các Ông cũng nên biết: Cứ mỗi Cảnh Giới nó liền có biên giới biệt lập, trong Cảnh Giới đó nó có nhiều giới, sự biệt lập ranh giới in như THÁI DƯƠNG HỆ của Nhân Sinh nầy. Từ cõi Trời đến Tiên Giới hoặc Thần Cảnh qua Nhân Sinh Thế Giới thảy đều không thể nào thấy nhau, hoặc đi lại với nhau được. Vì sao? Vì BIỆT NGHIỆP lại BIỆT CẢNH nên chi BIỆT THẤY. Trừ trường hợp Tu Luyện thoát sanh nơi nầy được hóa sinh nơi nọ, chớ Cõi nầy không thể đến Cảnh Giới kia được. Nhân Sinh thường quan niệm nơi Cõi Trời hoặc giả chư Thiên Tiên, cõi Thần Thánh có THẦN THÔNG lên xuống qua lại được, hoặc thường đến Nhân Gian cứu độ, đó chính điểm rất lầm, hoặc vì lòng Mê Tín hoài mong hay chưa được biết tường tận, trở thành ấn tưởng như thế”.

Thiền Sư vừa nói đến đây. Các Nhân Sinh đồng đứng lên thưa gởi: “Kính thưa Thiền Sư, Thiền Sư nói ra chúng tôi rất thắc mắc, một điểm thứ nhất: Có bậc đã từng gặp Tiên Thần hoặc Thánh, tại sao Thiền Sư nói không bao giờ đến đặng? Điểm thứ hai: Các Chư Tiên, Chư Thiên khó mà qua lại với nhau chỉ trừ hóa sinh đến đó, tại sao Thiền Sư nói, Thiền Sư đã từng qua lại các Cõi cùng các Cảnh Giới, nếu Thiền Sư đến nơi chốn đó Chư Thiên hay Chư Tiên có biết Thiền Sư ở Nhân Gian nầy đến chăng?”

Thiền Sư gật đầu nói: “Các Ông hãy nghe tôi giải”. Chúng tôi ngồi yên lặng, lúc bấy giờ Thiền Sư nói: “Sự Thấy hay sự Gặp nó phải Đồng Chất Đồng Thấy hoặc Đồng Chất Hóa Sinh ra cái thấy. Đạo Phật nói: Đồng Nghiệp mới Thấy, đến khi Biệt Nghiệp thì cái thấy, cái gặp nó tan thấy cùng tan gặp.

TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN

3. THẾ NÀO LÀ NĂM LỐI THẤY CỦA THỂ CHẤT ĐẠO PHẬT?

- Lối Thứ Nhất là: NHỤC NHÃN, lối nhục nhãn dùng bằng cặp mắt thịt, cặp mắt nầy tất cả Nhân Loài đều thấy, gọi là Đồng Thấy, nó không ngoài ĐẶC TƯỚNG.

- Lối Thấy Thứ Hai là: PHÁP NHÃN, lối thấy pháp nhãn, rất rộng rãi bao la, chung gồm tất cả muôn loài vạn vật Vũ Trụ, Sơn Hà Đại Địa thuộc về ĐẶC TƯỚNG thảy đều vạn pháp hóa sinh. Còn đứng về mặt Tư Tưởng, Định Tưởng, suy nghĩ hoặc định hướng đều gọi là ĐẶC CHẤT, cũng thảy đều là vạn pháp, chung gồm nơi vạn pháp ảnh hưởng Nhân Sinh, nơi NGHE-THẤY-BIẾT đều là vạn pháp, như thế cũng gọi là: Từ nơi một chất hóa sinh ra ngàn vạn chất thành tựu, kể cả hư không vô tận đến vạn tướng thành hình đều vạn pháp, cho nên Đạo Phật mới nói: MỘT THỂ HÓA RA VẠN PHÁP.

Ví như: Mỗi một thứ BỘT đem làm thành ra ngàn vạn thứ BÁNH, tùy mỗi thứ BÁNH hình thức khác nhau, pha chế hương vị khác nhau, nhưng THỂ nơi nó cũng là BỘT. Vũ Trụ cùng Nhân Sinh không ngoài THỂ CHẤT, Thể Chất hóa ra Sơn Hà Đại Địa chung khắp Vũ Trụ gọi nó là Pháp.

Nhân Sinh thì lấy Nhục Nhãn quan sát, còn Đạo Phật công dụng PHÁP NHÃN thấu soi, vì vậy nên chi các vật hạn, vật dụng, cử chỉ mỗi một khẻ động nhìn nơi Nhục Nhãn không bao giờ tận thấy, mà PHÁP NHÃN tận thấy. Nơi thấy NHỤC NHÃN là chỗ thấy nơi ngọn, còn cái thấy PHÁP NHÃN thuộc cái thấy tận gốc, Nhục Nhãn nhìn thấy chiếc Bánh trên hình thức, cho nên phải nghiêm cứu thực nghiệm mới biết được thứ bánh nầy pha chế làm sao, thứ bánh nọ làm bằng cách nào, phải học hết ngàn thứ bánh mới biết được, bằng chưa học chưa biết. Đối với Pháp Nhãn thì nó không phải như thế, nó chỉ nhìn đến liền tỏ rõ tường tận chớ chẳng cần đem đến thực nghiệm.

Đạo Phật duy nhất nương theo Thể Chất giải tỏa các tư tưởng của ĐẶC CHẤT và tự sáng soi vạn pháp, nhờ nơi giải tỏa tư tưởng suy tưởng định tưởng đến thường mơ tưởng hoài vọng nên biết được do đó mà hóa sinh ra cái sống chưa thực tại, sự làm chưa thực tế thì làm thế nào đem đến nơi chốn hiểu biết cho tường tận? Khi đã đoạt đến PHÁP NHÃN thì đến nơi Chân Tướng thực tại, ban đầu nhìn đến tư tưởng Nhân Sinh sau kiểm qua các tư tưởng nơi mình để kiểm điểm xem xét còn tập nhiễm trong tư tưởng xấu xa của ĐẶC CHẤT nó như thế nào? Hành động nơi chính mình ra sao? Từ lời nói đến việc làm nó có đặng tương song với nhau hay không? Do nơi đâu nó đồng? Do tại sao nó chưa đồng? Nhiễm-Trước là thế nào? Tập Nhiễm nó ra sao? Bị nhiễm bằng lối nào? Những chứng từ trên thảy đều thông đạt, biết tỏ rõ đường đi lối về của vạn pháp, di chuyển động vọng Tâm nó khởi sanh của tất cả nhân sinh không thiếu sót, đến chừng ấy không cần nhìn nơi ĐẶC TƯỚNG hoặc chẳng khởi Tâm Sanh mà thật biết tất cả lý sự Tâm khởi của nhân sinh, nhân loài vạn vật, kẻ nầy hay bậc nọ từ nơi hành động đến ý nghĩ của họ, sau nầy nếu họ đã mãn phần thoát sinh về đâu, đó cũng là cuộc Sống Chết đặng Chánh Báo hay Thọ Báo do tư tưởng đến hành động đưa họ đến nơi mong muốn vậy.

Bậc đoạt đến cái thấy PHÁP NHÃN chính là bậc đã từng Hạnh Nguyện Thật Tu, trong tư tưởng của Bậc nầy đã sạch hết bảo thủ cá tánh, bảo thủ tư tưởng, bảo thủ Nghiệp thọ ngã nơi mình, rõ biết vạn pháp chuyển luân Tâm không mắc miếu, Tâm chẳng chướng ngại, Tâm chưa hờn giận ở chỗ Ghét Thương, Tánh rất Bình Đẳng ưa thích giúp người, tham cầu cứu khổ, xa lià Tâm chẳng Tham Lam Danh Giả, Tâm chẳng mong cầu giàu sang, Tâm chẳng đắm chìm nơi ĐẶC TƯỚNG mà Sở Đắc Pháp Nhãn. Nếu có kẻ vẫn biết vạn pháp nhưng Tâm còn chìm đắm vạn pháp thì chưa phải là bậc Tu Chứng Pháp Nhãn, Các Ông nên nhớ kỹ.

- Lối Thấy Thứ Ba là: Khi Pháp Nhãn rốt ráo liền chứng tri THIÊN NHÃN, lối thấy Thiên Nhãn thuộc về cấp thứ BA, lối nầy chính là một lối thấy Quán Xuyến VŨ TRỤ cùng các Chư Thiên, thấy cùng khắp Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới, biết rõ những Chủng Tánh tư tưởng Đặc Chất nào mà thành tựu các Cõi, cùng các Cảnh Giới không sai mảy may nào cả, bậc Thiên Nhãn biết tất cả những Hành Vi hoặc lối sống vương giả của Chư Thiên in như tuồng thấy QUẢ NA trước mắt (quả na là quả Mãng cầu).

Nhờ biết nó như thế nên Tâm không mong cầu thành Chư Thiên Tiên, vì sao? Vì biết Chư Thiên Tiên cũng không ngoài vạn Pháp. Nơi phàm phu tục tử tạo thế giới sống trong ĐẶC TƯỚNG, còn bậc Tiên Thiên thì tạo THANH TƯỚNG để làm nơi sống của Tiên Thần, trên Vũ Trụ nầy có hàng ngàn Cảnh Giới cùng các Cõi, mỗi Cảnh Giới, mỗi Cõi đều có mỗi loài làm QUẢN LÝ, mỗi Cảnh Giới thành lập chính điểm của mình làm TÂM như: Thái Dương Hệ thuộc Nhân loài làm Quản Lý có hàng trăm thế giới khác nhau vẫn sống chung trong Trái Đất, lấy Trái Đất lập thành Tâm mình, gọi là: TÂM ĐỊA, các vật dụng không ngoài trái đất cung cấp, như Cõi Trời có 18 Giới làm Cảnh, dụng THANH HỎA làm TÂM, dụng cao thượng rộng rãi Quản Trị làm GIỚI, dụng uy quyền làm luật, dụng sung sướng màu sắc làm lẽ sống. Ngoài Cõi Trời lại có Cảnh Tiên, cảnh Tiên vẫn có ba tuần, gọi là Thiên Tiên, Cảnh Tiên cùng là Địa Tiên, dụng THANH CHẤT làm Tâm, dụng Cảnh Giới lập Giới, dụng Thần Thông làm LUẬT, dụng thanh cao tha thứ làm mức sống, có rất nhiều Cảnh Giới địa hạt không thể nào kể hết, duy chỉ có NGẠ QUỶ SÚC SANH ĐỊA NGỤC dùng đói khổ, dụng Dâm Dục, dụng khắc khổ làm Tâm, vì ba con đường nầy chuyên ròng SÁT ĐẠO DÂM nên Sát Đạo Dâm làm Tâm.

Mỗi một Cảnh Giới hoặc mỗi một Cõi có hàng triệu triệu Thiên loài, Tiên loài vẫn có trình độ khác nhau, chia ra nhiều giai cấp không khác mấy với Nhân Loài ở trên trái đất nầy, nhưng lẽ sống cùng nếp sống ăn uống trong Cõi giống nhau, nhưng ngoài Cõi đều khác nhau, nó in tuồng Thế Nhân với sống trong mỗi Nhà Nước, mỗi nước đều có phong tục khác, nếp sống khác nhưng trên trái đất đồng là con người.

- Lối Thứ Tư là: HUỆ NHÃN, lối Huệ Nhãn từ trong THỂ CHẤT phát ra, nó không khác chi ngọn đèn PIN chiếu ra yến sáng, nó bao dung thông quản trong ba lối thấy trên thảy đều có nó, do Tánh cùng Chất của nó bình đẳng nên Nhân Loài đến phàm phu qua Súc Vật đều có nó, nhưng mỗi loài công dụng mau biết hoặc chậm biết mà thôi. Từ Nhân Loài nhìn thấy suy gẫm mà biết, gọi là Trí Biết, hoặc có học mới có biết cũng là Trí Biết, hay nghiêm cứu thực nghiệm mở rộng tầm hiểu biết gọi là TUỆ BIẾT, hoặc đương nhiên Tự Biết là TRÍ TUỆ. Nếu học hỏi chung gồm nhiều Ý Thức tiến bộ gọi là: TRÍ THỨC, bậc Trí Thức biết phát sanh soi khắp liền tạo thành KIẾN THỨC.

HUỆ NHÃN rất viên dung, bậc nào ít nặng về Tham Lam ĐẶC TƯỚNG, ít nặng nơi Cá Tánh thì tiếp nhận nơi Huệ rất dễ dàng, nên gọi nơi nhân thế thì nó tùy trình độ, tùy khả năng nhiều ít mà phát triển Huệ, do nơi tiếp nhận không đều nên mới có kẻ Dại người Khôn, chớ thật ra Thể Chất ai ai đều sẵn có, do tại Vọng Tưởng nơi Đặc Chất quá nhiều tạo thành VÔ MINH che khuất Huệ Nhãn nên phải tu qua từng lớp mới đoạt thấu HUỆ NHÃN. Bằng có nhiều bậc chưa biết nhận nơi Tự Giác của Huệ Nhãn mà cứ đem Trí Thức bị biết nơi mình để cốt nhìn thấy cho minh xác thì cái thấy nơi biết kia nó không ngoài ĐẶC CHẤT ĐẶC TƯỚNG để thấy biết.

Đứng hàng Trí Thức đa số, khi nghe không tin, lúc gặp đến được biết mới tin, cho nên nơi chốn tin ấy là chốn tin của ĐẶC TƯỚNG, đặc tướng thường Tin nơi ảo huyền hơn là Thể Chất tự tin. Nếu những bậc nầy do nơi Tin đồng thời tu tập trong thời gian nhận được chỗ tin Thể Chất, liền xóa mờ lối tin nơi Đặc Chất Tướng Chất mà Tri Kiến, bên Khoa học cũng nằm trong tình trạng Đặc Tướng Tư Tưởng Đặc Chất nên chi nói Thể Chất khó mà nhận được.

Nói chung hai chữ: KHOA HỌC là nói đến toàn bộ, nền Khoa Học chia ra nhiều Ngành, mỗi ngành có nhiều vị chuyên môn một bên để nghiên cứu hoặc thực nghiệm mỗi Chất, cũng như bên Y Khoa nghiên cứu của mỗi Bác Sĩ một môn, vì như thế nên mỗi Khoa Học Gia hiểu biết không ngoài phạm vi thực nghiệm hay nghiên cứu về khoa nơi mình. Ví như: Một chất BỘT làm nên một trăm thứ Bánh, mỗi thứ bánh thì có một cửa hàng chuyên môn.

Về ĐẠO PHẬT, các Bậc tu chuyên chính, làm thế nào tự mình biết ngự chế tánh buông lung, tánh tự ngã cốt tạo thành tánh tình thuần tuý để giải tỏa các tư tưởng vọng cầu mưu sĩ đã trót mang nơi thân tâm ĐẶC CHẤT Ô NHIỄM, cho nên thường kiểm về tư tưởng cốt tỏ rõ, lúc tỏ rõ đó là khi thu về THỂ CHẤT với mình, vấn đề trau giồi Thể Chất đối với Đạo Phật là vấn đề quan trọng nhất. Khi trau giồi nhiếp thu cho trọn Thể Chất thời đặng Chánh Giác, Cũng như: Bậc lau chùi viên ngọc đã trót bị bám chất dơ, chất dầu cùng các chất làm mất cả Phổ Chiếu của viên ngọc vậy.

Nếu đứng bên lề Đạo Phật cho Đạo Phật là: TIÊU CỰC hoặc lầm Đạo Phật là: DUY TÂM, đó gọi là kẻ bàng quan chưa hiểu mỗi một tí nào cả. Bằng bước sâu vào Đạo Phật mới công nhận Đạo Phật tích cực vô cùng, dám đánh đổi ngự chế lòng mình để giải trừ tham vọng ích kỷ cá nhân, dám hứng chịu điều chua cay, không bao giờ làm thiệt hại kẻ khác, dám khuyên can kẻ tàn bạo, khuyến khích kẻ làm lành tạo thành một TỊNH ĐỘ cho Nhân Loài thoát khỏi bước đường cùng họ sắp vấp phải, miễn làm thế nào cho THỂ CHẤT hoàn lai là đặng.

Còn về DUY TÂM, Đạo Phật không chấp nhận CÁI TÂM, cũng không bảo rằng cấu tạo trong DUY VẬT, Đạo Phật thường bảo: Các Ông hãy nguyện Thật Hành cốt TẬN GIÁC, chớ vì sự làm mà chìm đắm nơi làm, như kẻ kia phá Núi, kẻ ấy cứ dùng sức để mà phá thì khó mà phá đặng, phải dùng Trí, có Trí thì làm chi cũng nên đặng. Các Ông mong phá bờ Vô Minh phải nên dụng Công để mà biết Vô Minh, chớ nên dụng Công mà chưa biết vô minh thì công của các ông bao nhiêu vô minh lại thêm nơi đó bấy nhiêu. Đó chính là Đạo Phật dùng duy vật cốt tỏ biết chớ chẳng phải sa đắm nơi Duy Vật.

Còn DUY TÂM sa đắm thuộc về CUỒNG TÍN, Đạo Phật thật biết nó như thế nên chi Đạo Phật nói: Do nơi TÂM vọng đảo nhân loài bị chìm đắm trong Danh Vọng, bởi nơi TÂM đưa từng tư tưởng hoài mong tạo nên tham lam xảo quyệt, Tâm chính là con ngựa chuyên chở Tư Tưởng thường tưởng ĐẶC CHẤT, phỉnh phờ nhân loài chạy theo Tâm trở thành Nghiệp SANH TỬ.

Đạo Phật chủ đích hàng phục Tâm, điều ngự Tâm, đến khi đoạt đến Bản Thể Tâm, tức là nắm bắt được Tâm phải cho thông đường lối của Tâm, gọi là: TÂM THÔNG, qua giai đoạn Tâm Thông rốt ráo bèn đem Tâm ấy liệng nó đi để liền lạc Tròn Giác, gọi là: KHÔNG TÂM. Như thế có phải Đạo Phật là Duy Tâm chăng?

Đạo Phật là một TÔN GIÁO tự cường tự lập CHU THÂN làm bộ máy tiếp ghi Vũ Trụ, giải quyết tử sanh, từ nơi cặp mắt NHỤC NHÃN chỗ thấy cùng nơi thấy thảy đều BỊ THẤY, khi đã bị thấy không bao giờ được trông thấy chân thật mà phải giải tỏa từng tư tưởng che đậy, từng màu sắc bưng bít để cấu tạo cặp con Mắt qua nơi bị thấy đến chỗ tự thấy, lúc đến tự thấy, gọi là PHÁP NHÃN, bước đến Pháp Nhãn lại càng đánh đổi nhiều hơn nữa, từ NỘI TÂM đến NGOẠI CẢNH không vướng mắc trơn liền không thọ nghiệp của vạn pháp mà đoạt đến THIÊN NHÃN, từ nơi thấy của Thiên Nhãn được biết các Chủng Nghiệp Định Tưởng tạo nên các Cảnh Giới cùng Các Cõi do ĐẶC CHẤT tư tưởng thanh lọc trở thành THANH PHÁP Đặc Tướng nó không khác mấy với Nhân Loài, cũng vẫn có tuổi thọ lúc hết tuổi thọ vẫn diệt vong, sự thu nhận THIÊN NHÃN rất biết chân thật của Pháp Nhãn đến trăm phần thấy biết, nhờ Thấy Biết chẳng biết bao nhiêu mà không hề mộng tưởng đảo điên mà thật chứng HUỆ NHÃN, nơi Huệ Nhãn thấy biết tỏ rõ sự lý luân chuyển từng kiếp Nhân Loài, Thiên Loài cùng tiên Loài và Ngạ Quỷ Súc Sanh đến Địa Ngục như bậc nhìn vào bàn tay thấy rõ đường chỉ nhỏ ở nơi tay cùng với các đường nhăn của tay cùng bàn tay vậy.

Khi Đạo Phật đã nói đến KHOA HỌC đương thời nầy cũng là một vấn đề hy hữu nhất, lại là lời nói minh xác tổng kết của ba thời Phật chứng minh rốt ráo để lưu lại cho Nhân Loài hiểu biết thêm phần nào hoặc giả ích lợi đến con đường Tri Kiến Giải Thoát cho nhân loài đời nầy hoặc giả đời sau. Nơi hiểu biết của Đạo Phật, từ cái nhìn, đến chỗ nghe qua sự biết đến năm lối như trên đã kể, đối với bậc Thể Chất toàn vẹn không bao giờ nói sai, đó chính là một yếu tố nên nhớ kỹ.

TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN

2. TẠI SAO KHOA HỌC KHÔNG THỂ NÀO BIẾT ĐƯỢC ĐẠO PHẬT

Vì Khoa Học Nghiên Cứu Thực Nghiệm về ĐẶC TƯỚNG là tướng đã sẵn có như: ĐỊA CHẤT lấy Tướng để thực nghiệm phân chất hoặc chất nầy pha với chất kia làm cho nó Hóa Chất, cứ như thế đến kết quả tận cùng của mỗi một Tướng Chất. Khoa Học đứng về phương thức MẮT THẤY mới biết, chớ Mắt chưa trông thấy thì chưa biết, đó gọi là ĐẶC TƯỚNG THỰC NGHIỆM.

Còn Đạo Phật công dụng về THỂ CHẤT, thể chất không làm sao dùng về máy móc hay cơ giới được, chỉ dùng THÂN TÂM TRÍ ÓC của con người. Thể Chất chính là phương thức TÂM SOI TÁNH, khi Tỏ Tánh liền Minh Tâm, lúc đã Minh Tâm giác ngộ liền thấy biết Vũ Trụ. Vì nó như thế nên Khoa Học không thể nào biết được Đạo Phật, mà chính Đạo Phật rất tỏ rõ về ngành Khoa Học. Trọng Lượng của Khoa Học thực nghiệm cơ giới, còn đạo Phật dụng Công Năng thực nghiệm nên khó nhận biết đến Đạo Phật.

ĐẠO PHẬT thường nói: Nơi ĐẶC TƯỚNG nó có hình sắc, nó phải có thời gian tuổi của nó, khi đến thời gian hết hạn nơi nó thì nó bị Diệt Vong tan rã. Còn BỔN LAI THỂ TÁNH, tuy nó không có lấy một hình tướng gì nhưng nó Bất Diệt; vì vậy nên tựa vào hai cơ bản để nói thì nếu Khoa Học tiến triển đến tận cùng Khoa Học Diệt Vong, còn Đạo Phật tu đến tận cùng Giác Ngộ Bất Diệt.

Phân Tách Cái Thấy của ĐẶC TƯỚNG nó như thế nào? Còn Cái Thấy nơi Thể Chất nó ra sao?

Cái Thấy nơi ĐẶC TƯỚNG có TƯỚNG mới có thấy, có tiếng Vang mới đặng Nghe, có nói năng mới có biết. Ví dụ: Gió kia mà không có lá rụng hoặc da thịt của con người không cảm xúc thì không thể nào biết được gió. Nếu Khoa Học chưa đem Đặc Tướng ra phân chất thì không thể nào biết được chất đó nó ra làm sao, gọi là Cái Thấy nơi Biết không ngoài ĐẶC TƯỚNG để mà biết.

Còn Cái Thấy nơi THỂ CHẤT, nhìn vào ĐẶC TƯỚNG liền biết rộng rãi, biết tinh hoa, lần đem cái biết dung dưỡng THỂ CHẤT, làm cho ít nặng về Tướng. Khoa Học cần về ĐẶC TƯỚNG, lấy Chơn Tướng làm bước tiến bộ. Còn về Đạo Phật dùng Thể Chất thu nhận tinh hoa làm lối tu. Do lẽ ấy nên cái thấy nơi Đạo Phật có Năm lối thấy, còn Khoa Học chỉ có Một lối thấy mà thôi.

TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN

1. Đạo Phật Với Khoa Học

ĐẠO PHẬT với KHOA HỌC mới vừa nghe, đa số quan niệm hai bên khác nhau, nhưng đối với bậc đã từng thâm nhập Đạo Pháp liền nhận thấy Khoa Học nằm trong Đạo Phật, vì sao? Vì Đạo Phật chính là đạt đến Vũ Trụ Nhân Sinh Hoàn Giác, nên chi đã chỉ, nói trên 2.520 năm, đến nay Khoa Học mới nghiên cứu thực nghiệm ra đặng một khía cạnh nào ngờ đâu Đạo Phật đã nói trước.

Đạo Phật tu Tự Tánh Tỏ Tánh nên biết rõ CHỦ TÁNH của các loài Lầm Mê trên Vũ Trụ, mỗi loài tại sao lại bị hóa sinh thay đổi từng kiếp? Vì mang nặng Cá Tánh, Chủ Tánh ấy mới hóa sanh ra từng lớp lớp, lớp nào phải ăn ở theo lớp nấy, do đó mới có: Loài Nhân, Tiên Thần loài, cùng các Cõi đều có các loài vạn vật cùng thực vật.

Đạo Phật nói rõ BỔN TÁNH vạn loài, khi chưa mê lầm thì thảy đều có Bổn Tánh đầy đủ bình đẳng như nhau, vì suy tưởng lòng mong muốn hoài vọng nên sử dụng khác nhau trở thành Bất Đồng. Lúc đã bất đồng liền bị phân phối cao thấp lớn nhỏ, theo đó có chỗ nơi Được, Mất, Tốt, Xấu, nên mới có Lục Đạo, loài Người, loài Tiên Rồng, loài Trời cho đến Súc Sanh, Ngạ Quỷ, Địa Ngục, khi đã thành hình riêng biệt thì trí nhớ khác nhau, giai cấp trình độ khắc biệt, đến ngày hôm nay mới nhận thấy mỗi người mỗi Tánh, mỗi loài mỗi khác là do nó như vậy, nó đã bị hóa sanh như thế, gọi là BIỆT CẤP.

Nếu Khoa Học tìm đặng, thấy đặng lời biện minh trên thì biết của từng loài Bị Sanh, thì cứ mỗi một chất làm Chủ Thể thời có trăm chất Phụ Thể, như Nước là Chủ Thể thì trong Nước đã sẵn có chất Gió Lửa cùng chất muối đường. Còn như chất ĐẤT làm chủ thể thời vẫn có Nước, Gió, Lửa và các chất khác không thiếu sót đều là chất phụ thể. Đạo Phật đã nói trên, khi con người hay vạn vật chưa thành hình, hãy còn Nguyên Bổn thời đầy đủ tánh như nhau gọi là Thể Tánh Chân Nguyên. Thể tánh chân nguyên có giá trị vô kể, nếu con người biết được như thế, thì con người dùng Bổn Tánh nơi sẵn có của mình mà quan sát Vũ Trụ, làm chủ vũ trụ. Đằng nầy chính mình đủ cả vạn vạn tánh không dùng, lại đi thành lập lấy mỗi một tánh, tánh ấy nó làm Chủ mình, đưa mình bị hóa sinh từng loài, do đó Đạo Phật mới nói trên, mà Khoa Học đã tìm thấy, mỗi một chất chính nó có hàng bao nhiêu chất phụ, chưa nhận biết được lẽ trên.

KHOA HỌC nhìn vào Vũ Trụ, thấy biết được vũ trụ còn rất nhiều khoa học, nhìn lại con người cũng công nhận con người TÁNH CHẤT rất khoa học, do lẽ ấy mà khoa học mới đặt mục tiêu vinh quang khoa học của ngày mai. Có nhiều Khoa Học Gia cho con người SIÊU ĐẲNG nếu biết sử dụng lấy nó, nên chi Khoa Học Gia mới tự nguyện lấy mình, bèn dùng Trí mình nghiên cứu đồng với Thực Nghiệm, sau đến kết quả chỉ đến mức SIÊU HÌNH HỌC.

Nói đến Con Người, tại sao Siêu Đẳng? Như trên đã trình bày, con người vốn có BỔN LAI THỂ CHẤT nguyên vẹn, thể chất đó nó tinh hoa sáng suốt Bất Diệt, nó có thể Quán Xuyến chung gồm các chất sẵn có nơi nó không thiếu sót, cho nên khi nó cao thượng thanh bai, tư tưởng trong sạch thì nó đã hướng về THANH CHẤT, nơi thanh chất nó đồng chất với hư không, nó mới đồng tư tưởng thanh thoát. Nhờ thanh chất đó, khi con người bị hóa sinh trong Phàm Phu hoặc giả nghiệp cấu sa đọa, dùng thanh chất tu luyện được hóa sinh lên CẢNH GIỚI Tiên Thần hoặc các Cõi cao thấp tùy theo mức tu luyện thu nhận thanh chất mà thành tựu.

Khoa Học vẫn dùng Cơ Giới loại Tối Tân thu nhận HỎA THANH cũng là loại thanh chất làm Điện Tử năng lực, còn lấy tinh vi mỗi một chất thì gọi là NGUYÊN CHẤT, nguyên chất nầy nơi Đặc Chất lọc ra một chất cũng gọi là Nguyên Chất.

TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN