29. CHẤP TRƯỚC ĐƯƠNG SINH THỌ NGÃ

Nói về chương trình Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam, đương thời Đức Tăng Chủ Tịnh Vương Nhất Tôn chỉ đạo, theo thường lệ, mỗi năm kể từ ngày 24 tháng 12 là ngày Đản-Sanh của Ngài, trong toàn Hội Đồng Tứ Chúng an nghỉ, tạm hoãn sinh hoạt cho đến 12 tháng Giêng Đại Lễ Khai-Nguyên Pháp-Tạng, thời bắt đầu sinh hoạt như thường lệ. Ngoài ra, ngày mùng một Tết Nguyên Đán, Tứ Chúng tề tựu để dự lễ Đức Di Lạc Tôn Phật, cùng nhau chúc tụng đầu năm.

Do chương trình thường lệ nên chi tại Trung Ương Hội Thượng yên tĩnh hơn ngày thường, duy chỉ có hàng Tín Tâm Tôn Giả hoặc Giáo Pháp hay các bậc mến đạo, say đạo, quý đạo tu không nhàm chán thường về vãng lai Trung Ương chẳng thiếu sót. Các bậc nầy đã từng hiểu biết giá trị Chân Lý Bảo Pháp, đã từng gần gũi đức Tăng Chủ để thọ lãnh lời chỉ giáo không biếng trễ, nên chi ngày nào vẫn tu trì Tinh Tấn bất chuyển.

Vào đêm 27 tháng mười hai, lúc 9 giờ tối, tôi về Trung Ương trước sự hiện diện gồm có: Ông Pháp Sử, Pháp Tràng, Pháp Bang, bà Pháp Tướng, Pháp Tùng, ông Pháp Hậu, Tạng Bửu, Tạng Nguyên, bà Tạng Trình, ông Tạng Bền, Tạng Dụng, bà Diệu Thái cùng nhau đàm luận thân hữu thích thú an lành, lại hứa hẹn thăm viếng dịp Tết đến buổi đầu Xuân.

Bỗng nhiên đức Tăng Chủ từ Tịnh Thất bước ra, chúng tôi lễ bái xong, không như thường lệ Ngài đồng ngồi chung với Tứ Chúng, êm lặng đầy cảm mến, chốc lát Ngài dạy:

“Nầy các ông, tôi nhận thấy các ông thích sống về đạo, ưa vui với đạo, lấy đạo làm nguồn sữa yên lành, làm nơi an nghỉ, nên hôm nay tôi vì các ông để nói lên những kẻ tu tập bị biếng trễ, những bậc cầu Đạo Vô Thượng tu không trọn là do CHẤP TRƯỚC ĐƯƠNG SINH THỌ NGÃ. Chấp trước chính là một vấn đề ngăn đón từng lớp lang thứ bậc thọ ngã an trụ vậy, hiện giờ tôi dùng phương tiện như thế nầy để chỉ cho các ông nhận thấy thế nào là Chấp Trước Đương Sinh Thọ Ngã.”

Ngài nói xong lần lượt hỏi từng bậc, mỗi vị đều thưa thỉnh trường hợp ấn tượng phát sinh quan niệm làm cho sự tu hành bê trễ, khi kể xong, chúng tôi nhận thấy rõ được do nghiệp thức động vọng khởi sinh quan niệm nghi chấp, gọi là Chấp Trước, thật khó tu, khó tiến bộ bởi ngăn cách. Đức Tăng Chủ Ngài hỏi vị sau cùng là ông Pháp Sử đứng ra trình bày thưa thỉnh:

– Bạch Đức Tăng Chủ, con gặp đặng Ngài, con chưa nhận định được chi cả, chỉ quan điểm duy nhất là Chiêm Ngưỡng Lễ Bái, cầu vái chư Phật, chư Long Thần Hộ Pháp. Vì như thế, nên con ít lưu tâm, kém chú trọng về Giáo Lý, do đó kém sự học hỏi, trí tuệ mơ màng, chỉ nhất tâm cầu thỉnh là hơn cả. Đến một hôm con nghe Ngài khai thị trong ngày lễ sinh hoạt rằng:

“Các ông cũng nên biết, dù cho các ông có tu trì lễ bái cầu vái van xin hay trường trai dùng toàn hoa quả chăng nữa, tu như thế từ một kiếp đến trăm kiếp mà chưa sáng soi ĐỐ TẬT, chưa tu sửa nghiệp thức trái ngang để giải phá VÔ MINH, thời như chưa có một ngày tu.” Con nghe đặng lời ấy, thế rồi con bắt đầu thường về nghe Giáo Lý."

Có một hôm, con tự kiểm điểm nhận thấy sự tiến bộ về sửa tánh, sự thư thả nhờ Cổi Giải Tâm, con từng kiểm kê căn nghiệp đảo loạn của con, từng phát sinh trước nghịch pháp, con giải tỏa được nương nhờ nơi đó tiến bộ đương sinh con thương Ngài. Con nhận thấy Ngài Chỉ Đạo dạy cho chúng con không dục lợi cầu báo chi cả, nhưng phần Ngài thì thiếu thốn, còn con thì nghèo, nếu con gần Ngài thêm hao sức nơi Ngài, con cứ nghĩ như thế một thời gian tâm con thờ ơ, lòng con chê chán bãi bỏ công phu, lăn lộn theo sự sống mải mê bê trễ. Một hôm, con nghe Ngài nhắc đến con, tựa như làn mật cảm thân yêu trìu mến, con vội vã về, Ngài hỏi, con thưa lên nỗi lòng viễn tượng của con cùng sự e thẹn chẳng có chi đền đáp ơn Ngài. Ngài nói:

“Kể ra ông biết nghĩ đến tôi cũng tốt, nhưng tốt hơn hết là ông phải đào tạo Trí Tuệ tu đến Tri Kiến Giải Thoát, đó chính là ông đền đáp ơn tôi. Ông chớ vì một chuyện nhỏ mà phí bỏ việc lớn thời gian gặp tôi chỉ đạo.”

Con nghe xong, phá giải đặng ấn tượng quan niệm, đến nay con mới biết đặng được gần Ngài thật quý vô giá khó nghĩ bàn, dù con có tu cách mấy chăng chính con tự tạo Vô Minh Thọ Ngã.

Thưa thỉnh xong, ông Pháp Sử ngồi về một phía.

Đức Tăng Chủ trầm ngâm chốc lát, Ngài dạy: “Nầy các ông, các ông đã từng nghe, mỗi vị trình bày mỗi diễn cảnh, ấn tượng bất đồng tâm khởi sinh Nghi vội Chấp hoặc đương nhiên động vọng trở thành CHẤP TRƯỚC làm cho bê trễ hay ngăn trở tu hành.

Nói đến chấp trước, nó có rất nhiều trường hợp, tùy theo sự ngăn chấp nhiều ít của mỗi vị, nhưng chung quy do tâm khởi động vọng tựa như nghịch ý mà thành, nó chỉ có hai đường nói được, một là tiến bộ khởi duyên tu không ngừng, hai là Thoái Chuyển làm cho bê trễ ngăn cách đoạn duyên Chấp Trước Thọ Ngã. Khi các ông đã nhận biết sự phân định Chấp Trước bất lợi thì các ông phải hóa giải, cốt cho đặng trơn liền để đoạt đến mục đích rốt ráo, đó gọi là NGHI CHẤP GIẢI CHẤP, các chư Tổ cùng chư Bồ Tát vẫn thường dụng con đường duy nhất ấy, nên Bồ Tát nói: “CHỚ SỢ NGHI, CHỈ SỢ KHÔNG GIẢI NỔI NGHI.

Đối với thường trụ hay chấp trước chẳng phải do đâu mà có, do Nghiêp Thức trót lầm mê mà thường có khởi sanh khởi diệt, chưa đặng biết được nó nên thọ chấp trở thành Nghiệp, nghiệp càng nặng bao nhiêu thì sự khắc biệt Chấp Trước bấy nhiêu. Nếu bậc tu hành đã biết nơi khởi sanh diệt thọ chấp nguy hại thì đương nhiên phá giải, cốt Chân Thiện hoàn lai.

Các ông cũng nên biết, tại sao lại có từng lớp lang thứ bậc như phàm phu đến Thiên, Tiên Thần cùng Thánh Tăng? Do nơi lầm mê vội chấp cầu mong mà thành Tiên Thần, Thiên, Phàm phu, còn đoạt đến bậc Thánh Tăng thời phải tu môn Nghi Chấp Giải Chấp rốt ráo thành Thánh Tăng.

Tôi nói ra đây các ông nên ghi nhớ. Nếu Phàm Phu gặp đặng vị Thánh tăng chỉ dạy cho phàm phu, thời vị này phải giảng giải chỉ dạy tận tường cốt làm thế nào đưa Phàm Phu qua từng lớp lang Nghi Chấp Giải Chấp, đến chừng nào tỏ thông vạn chấp của phàm phu, của Tiên Thần, của chư Thiên khỏi nghi hết chấp mà rốt ráo hoàn mỹ Chánh Giác.

Bằng Phàm Phu có Tâm Chí nhỏ nhen vị kỷ keo kiệt gặp đặng bậc Thiên, thì vị nầy sẽ chỉ dạy cho Phàm Phu quảng đại Bố Thí, đi đứng khoát đạt, ăn nói chững chạc, Tâm Chí cao thượng đến mức thành tựu chư Thiên.

Nếu Phàm Phu gặp đặng Tiên hoặc Thần thì các vị này sẽ dạy thanh cao tinh khiết, xa lánh ô trược, uế trược nơi phàm phu để tu luyện. Còn gặp phải Ngoại Đạo, Tà Giáo thì dạy Tế Tự Sát Sanh, Bùa Ngải, luyện Gồng, luyện thân thể trở nên dao chém không đứt, gậy đập không chuyển mà thành tựu y như sở cầu của bậc chỉ dạy đó, duy chỉ có Phật Đạo, bậc Thánh Tăng mới dạy giải mê lướt qua các khởi vọng nghi ngờ chấp trước cốt thành đạt rốt ráo hoàn mỹ chánh giác. Đó chính yếu điểm ngôn từ chân giác vậy.”

Đức Tăng Chủ dạy đến đây, Ngài dùng chung trà xong nói tiếp:

“Nầy các ông, các ông đã nhận biết mỗi giáo môn đều có vị Chỉ Đạo đưa Tín Chúng đoạt đến đích, thì mỗi một bậc có trình độ hiểu biết hơn Người, đưa cho con người đến trình độ của mình không hơn kém. Mỗi một ông Giáo dạy cho học trò thời chỉ đưa cho học trò ấy đến sức học của mình. Đối với Pháp Môn Tối Thượng gặp bậc Chánh Giác vốn có mục đích duy nhất đưa Tứ Chúng nhiếp thâu vạn vạn môn thật tỏ rõ từng môn, từng chấp trước của các bậc lầm lẫn, chính mình chẳng còn lầm mà chánh giác hoàn mỹ.

Khi các ông nhận định làm thế nào để thấu tỏ sự lìa chấp từng lúc, từng hồi, các ông khỏi vướng vào chấp ngăn ấy là các ông đã nhiếp độ, nếu nhiếp độ từ một đến bá thiên vạn nhiếp, đương nhiên chính mình chủ hóa trí tuệ của mình, chính mình tự giải mê lầm mà chủ hóa cho mình từ phàm phu trở thành Hóa Thân chánh giác. Cũng như kẻ học trò, ban sơ học lớp Một, kẻ ấy kiên trì học mãi không ngừng cho đến thành tài Bác Học hay Kỹ Sư chẳng hạn, đối với con đường lìa chấp tỏ rõ sự ngăn chấp làm cho mình khỏi lầm nơi chấp đoạt đến toàn giác cũng thế.

Nói về Tu Phật, Pháp Môn Giải Thoát tức nhiên ra khỏi sự lầm mê, các bậc tu phải tỏ rõ tất cả nguồn mê chấp, nếu sở cầu giải mê phải tu cho đầy đủ các môn mê chấp, nương nhờ nơi các môn MÊ ấy mới giải thoát, bằng chẳng như thế thì khó bề giải thoát. Các ông nghe tôi nói như thế, các ông nghĩ thế nào? Nếu các ông còn đang nghi ngờ vọng loạn, các ông chấp nơi vọng loạn là thật thể, thì thử hỏi các ông đã rốt ráo thực thể chưa?”

Lúc bấy giờ tất cả Tứ Chúng đồng thưa:

“Bạch Đức Tăng Chủ, không bao giờ rốt ráo. Vì sao? Vì CÒN NGHI THỜI CÒN CHẤP.”

Ngài gật đầu, dạy tiếp:

“Các ông hãy nghe tôi nói, tình trạng chung của các bậc Chỉ Đạo trên con đường Giải Thoát, tình trạng nầy tất cả bậc Chỉ Đạo Tối Thượng thảy đều hứng chịu, càng Chỉ Đạo rốt ráo bao nhiêu càng chịu đựng với sự nghi ngờ Chấp Trước của các ông bấy nhiêu, chừng nào các ông khỏi nghi thì các ông hết chấp, chừng ấy mới là Báo Ân cho bậc Chỉ Đạo, nếu các ông còn nghi đang chấp thì các ông chớ vội cho mình đã báo ân, đó chính là lời chân tình ngày hôm nay tôi nói ra đây.”

Lúc bấy giờ Đức Tăng Chủ Ngài nói đến đây, Ngài nhìn về xa xăm in tuồng chiêm ngưỡng chư Phật thời quá khứ, Ngài bảo đốt nén hương nơi Chánh Điện, Ngài dạy:

“Kể từ Đức Bổn Sư Chỉ Đạo, Ngài đem Pháp Môn Tối Thượng ban hành Tri Kiến Giải Thoát. Ngài đã chịu tất cả các Giáo Môn từ bên ngoài bài bác, phần thì bên trong chư đệ tử khó tin Ngài chỉ đạo Giải Thoát, Ngài phải tùy theo nguyện vọng sở nghi của tất cả giải bày, dụng tất cả lòng tham cầu mong muốn theo động vọng Tiên Thần mà diễn giải gần 40 năm, sau có nhiều bậc lãnh hội tinh thần Giải Thoát soi biết rõ Nghiệp Thức hay chấp, thường chấp, lần lượt lướt qua từng Chấp Trước mà trơn liền Giác Ngộ, đến khi Ngài nhập Niết Bàn mới thiết tha mong nhớ thì cớ sự đã an bài.

Đến giai đoạn các vị Tổ thừa kế Chỉ Đạo thì chư đệ tử nào có Tin là Tổ. Cũng chưa Tin được sự Giác của chư Tổ, nó vẫn tái diễn không khác mấy với đức Bổn Sư ngày trước, cho đến ngày hôm nay tôi ngồi trước mặt các ông, tôi vẫn Chỉ Đạo với một Mục Đích, tôi vẫn chịu những gì mà ngàn xưa đã chịu, tôi vẫn bị nghi những gì mà ngàn xưa đã nghi, tôi vẫn giải những gì mà ngàn xưa đã giải không hơn kém tí nào cả, chính tôi đã biết nó như thế nên tôi rất tự tại vô ngại, tôi chỉ phụng sự Đại Bi, do tôi phụng sự Đại Bi mà giảng nói thời Giáo Ngôn bất nhị nầy chủ yếu các ông đời này và đời sau phá giải chấp trước làm bước tiến Giải Thoát, bằng chẳng phá giải, để Chấp Trước Đương Sinh Thọ Ngã, tu chưa rốt ráo thời lỗi ấy do các ông tạo thành chớ bậc Chỉ Đạo không chịu trách nhiệm.”

Ngài dạy xong, chúng tôi đồng lễ bái phụng hành phổ biến. Thật là một Giáo Ngôn tuyệt mỹ, Ngài đã dủ lòng Đại Bi nói lên các Thời Chỉ Đạo khai thị tỏ rõ những gì mà Tứ Chúng đã chấp trước đối với Ngài. Chúng tôi tự nghĩ những ê chề, những gì mà chúng tôi đã nghi chấp thọ chấp làm cho Ngài phải chịu lấy từng bậc nghi chấp, từng kẻ chấp nghi, từng người thọ chấp, không thể nào kể cho hết nông nổi của Nghiệp Thức tạo thành. Chúng tôi chẳng biết viết sao đây để tỏ lòng sám hối, chỉ mong tất cả quý Đạo Hữu, các bậc tu hành xem kỹ, nhớ kỹ giải chấp phá nghi khỏi vướng nơi Chấp Trước mới đền đáp đặng Tam Thế chư Phật, mới báo ân bậc Chỉ Đạo.

NAM MÔ TỊNH VƯƠNG PHẬT CHỨNG MINH
TÂM THÀNH TỨ CHÚNG LONG HOA HỘI THƯỢNG
Ngày 4 tháng 1 năm Ất Mão
Chân Phật Tử: Võ Văn Khoa
Pháp Danh: Pháp Khả
“Phụng ghi để phổ truyền”

28. ĐẠO PHẨM

Lúc bấy giờ, vào đêm 14 rạng ngày Rằm tháng 11 năm Giáp Dần. Tứ Chúng Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam tề tựu rất đông đủ, từ hàng Tín Đồ Đạo Chúng đến hàng Trưởng Giả Chúng, Hộ Pháp Chúng cùng Thị Giả Chúng dự lễ sinh hoạt hàng tháng.

Tất cả toàn Tứ Chúng đều ngạc nhiên giữa đêm hôm ấy có một không khí điều hòa, Thân Tâm thoải mái lại thêm vào đó có các hàng từ xa về dự lễ.

Trước Chánh Điện Hương Trầm nghi ngút, anh em Tứ Chúng ngồi theo thứ lớp vì giờ hành lễ sắp đến. Một Thị Giả và một Hộ Pháp lên Cung Nghinh ĐỨC LONG HOA TĂNG CHỦ Chứng Minh Đại Lễ. Tiếng chuông reo báo hiệu ĐỨC LONG HOA TĂNG CHỦ sắp Giáng Lâm, tất cả Tín Chúng đều Chiêm Ngưỡng ĐỨC TĂNG CHỦ từ Tịnh Thất bước ra, Tứ Chúng lễ bái. Ngài an tọa, sau khi hành lễ xong ĐỨC TĂNG CHỦ ban Giáo Ngôn, Ngài dạy:

Hôm nay là ngày tôi đã viết vào BẢO PHẨM XUẤT THẾ CHƠN KINH với mục đề ĐẠO PHẨM, Tứ Chúng nên Nhứt Tâm Đảnh Lễ Chiêm Ngưỡng Tín Thành để Cung Thỉnh ĐỨC GIÁO CHỦ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT Chứng Minh lòng thành của Tứ Chúng, Tín Nguyện của tôi có bổn phận trên Báo Ân Tam Thế, dưới mở lối Vô Minh đã che khuất các ông làm cho thời Hạ Kiếp phải lạc hướng tu trở thành mơ màng ảo tưởng, bởi như thế nên tôi cũng thường nói các Nghiệp Thức, các Vọng Đảo tạo thành Vô Minh che khuất, nên những lời tôi dạy cho các ông chưa Thọ Lãnh được bao nhiêu, đối với con đường tu Chánh Giác nó hãy còn xa vời vợi. Do lẽ ấy tôi quyết định nói rõ Chân Lý của ĐỨC CHÍ TÔN chỉ thẳng đường lối sáng suốt để cho đời này và đời sau làm một tấm gương huy hoàng tu chứng thật sự TRI KIẾN GIẢI THOÁT.

Các ông cũng nên biết, đối với Chánh Pháp Bảo Truyền nó đã bị thất lạc trên 1000 năm chớ chẳng phải bây giờ mới lạc, do lạc mà trở thành Mạt Pháp, chớ nào Pháp đâu phải Mạt. Do sự nhận định tinh thần Phật Đạo yếu kém thành thử lối tu cũng yếu kém, do Tâm Quán không minh định nên Tâm kia nó trở thành Vọng Đảo, Giáo Lý chưa nghe được bởi Hạnh Nguyện không tích cực thành thử con đường Chân Giác xa xăm, tôi sẽ cho các ông ghi chép lại thời Giáo Ngôn này ở trong tập Bảo Phẩm Xuất Thế Chơn Kinh, để cho các ông có đủ ý chí, tâm chí, quyết chí thành tựu Nhứt Tâm mà đi đến.

Ngài dạy xong trở về Tịnh Thất. Tứ Chúng thọ lãnh ghi chép để phổ truyền.

ĐẠO PHẨM

TỰ TẠI ĐẠI BI diễn giải về Đạo Phẩm, Đạo Phẩm duy nhất có một. Từ Đạo Tràng nhiếp thâu huân tập các Phẩm Nguyện đầy đủ gồm về một mối TRI KIẾN GIẢI THOÁT. Không ngoài hai chữ TU đồng với HÀNH. Đạo để huân tập LÝ TRÍ HƯỚNG THƯỢNG. Lý Trí Hướng Thượng là Chân Lý Tối Thượng Bát Nhã Trí. PHẨM cốt yếu thâm nhập vạn pháp, Tỏ Pháp Sở Đắc.

Đương thời này suy kém nơi Hướng Thượng, chỉ dùng Lý Trí chủ thủ trở thành Lý Luận suông, vì vậy nên đường tu dễ bị lầm vào Lý Chướng đến Sự Chướng, khi Lý Sự đều chướng thì Đạo Phẩm mơ màng, do mơ màng đâm ra mơ hồ thối chuyển, vì nó như thế nên: Tự mình Phát Tâm tu, rồi chính mình tự phản lấy.

Đứng trước mơ màng Đạo và Phẩm, các Bậc tu đang phân vân chưa quyết định, Tâm tự hỏi lấy Tâm. Nên ở Đạo Tràng hay nên lìa khỏi Đạo Tràng? Câu tự hỏi ấy nguyên nhân Lý Sự chướng mơ màng thối chuyển mà ra, chẳng phải do đâu mà có nó. Thời Trung Kiếp tất cả các Bậc tu hành chẳng có câu hỏi đó, vì sao? Vì Thời Trung Kiếp, Bậc tu ít Lý Trí, dụng Ý Trí nên chi tu thế nào hay Phát Nguyện ra sao vẫn gìn giữ Tròn Nguyện, nhờ thế mà không có vấn đáp phân vân toại nguyện thật chứng.

TỰ TẠI TÂM nói lên Đạo Tràng không phải THỦ mà cũng chẳng phải XẢ, không phải LẤY cũng chẳng phải BỎ. Nếu Đạo Tràng Cố Thủ, Tu Cầu thành Phật, thành Bồ Tát, thành Chư Thánh thì vẫn sai biệt với tinh thần toàn giác. Bằng Xả Bỏ Xa Lìa không chấp nhận Chư Phật, Chư Bồ Tát Tam Thiên vẫn sai biệt tinh thần Hoàn Giác lại bị lâm vòng KIẾN DỤC.

Sự Lấy Bỏ Thủ Xả do nơi Thật Hành chưa đúng Tinh Thần mục tiêu của Chân Giác, khi đã Tu đúng, nhận đúng liền biết, lúc đã biết mới nhận thấy: HUÂN TẬP ĐẠO TRÀNG ích lợi những gì, bằng không huân tập thiệt hại ra sao? Nếu thật hành đầy đủ các Phẩm có lợi những gì? Bằng chưa thật hành Phẩm thời nó ra sao?

Khi các Bậc tu hành nhận biết tỏ rõ Đạo Phẩm duy nhất, các Phẩm thảy đều là những môn Trợ Đạo bồi dưỡng cho Đạo Tràng, Chư Bồ Tát đã từng tu tập, đã từng dụng Chí Nguyện thật hành các Phẩm Nguyện làm tinh chất bồi dưỡng cho sự hiểu biết đến Giác Ngộ. Nay các Bậc tu mong cầu Diệu Quả Bồ Đề rất cần nương theo vết chân Chư Bồ Tát, đồng Hành, đồng Sự, đồng kết quả như nhau, đến lúc Chư Bồ Tát thành tựu Bồ Tát vẫn nương theo nơi Bổn Nguyện của Chư Phật đã làm, nay Bồ Tát phải làm mới kết quả, Hiện hành các Bậc Tu rất cần tu đúng tinh thần, tu đúng với Sở Nguyện thời làm gì không Giác Ngộ? Đó chính là lẽ dĩ nhiên nó phải như thế.

Bậc Tu đã từng Huân Tập Đạo Tràng thật hành các Phẩm Nguyện đầy đủ bao nhiêu thì sự hiểu biết càng tăng trưởng bấy nhiêu, nương nhờ nơi Lễ Bái, Chiêng Đàn, Trống Phách, Tụng Niệm. Chiêm Ngưỡng, từ Đại Lễ, Trung Lễ, Tiểu Lễ. Mới nhận thấy mình đang chung cùng duy nhất một LẼ SỐNG trong BÁO THÂN CHƯ PHẬT.

Nơi Báo Thân trùm khắp Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới, các Cõi cho đến các Cảnh Giới, Tịnh Độ cùng Quốc Độ Ba Cõi Sáu Đường không thiếu sót đều là Báo Thân. Khi thành Tựu Chánh Báo Thân Phật có đầy đủ các hàng Bồ Tát như Bồ Tát Nguyện, Bồ Tát Bảo Trì, Bồ Tát Hộ Pháp, Bồ Tát đến Bồ Tát Ma Ha Tát, từ hàng Bồ Tát đến Đại Bồ Tát có hằng hà sa số Bồ Tát. Trang Nghiêm từng Quốc Độ của Chư Phật.

Các hàng Chư Thiên, Chư Càng Cát, Chư Long Thần, Chư Hộ Pháp, Chư Hộ Pháp Bồ Tát, Chư Hộ Pháp Bồ Tát Ma Ha Tát đồng thanh Niệm Phật, đồng thanh tán thán, đồng thanh Chiêm Ngưỡng Lễ Bái Nhứt Tâm Cúng Dường không dứt.

Báo Thân Phật có đầy đủ Trang Nghiêm, có đầy đủ trang trí Quốc Độ như Bảo Châu, Ngọc Bích, Xa Cừ, Xích Châu, Mã Não cùng các Báu khác như Lọng Thanh Quang Bảo Châu. Phướng Hồng Quang Xích Châu cùng Mã Não Trân Châu. Tràng Phang Bạch Châu cùng Huỳnh Châu, Bảo Cái kết đính hằng hà sa số Châu Ngọc cốt trang nghiêm Quốc Độ.

Nơi Chánh Báo có hằng hà sa số Quốc Độ, mỗi Quốc Độ thảy đều có sự Trang Nghiêm Trang Trí như trên, đồng với hàng hà sa số các hàng Bồ Tát, các hàng Chư Thiên, các hàng Chư Long Thần Hộ Pháp, Chư Hộ Pháp Bồ Tát, cùng nhau rải hoa Cung Kính tán thán không ngừng, Sự Trang Nghiêm Quốc Độ Chư Phật bất khả thuyết, bất khả tư nghị, duy chỉ có Nhất Tâm TIN liền đặng.

TỰ TẠI ĐẠI BI nói chân thật, đối với ĐỨC PHẬT lời vàng đưa ra, các Bậc TÍN THÀNH Thọ Trì KHỎI PHẢI TU vẫn thành Phật, vì sao? Vì Phật không có Vạn Pháp, đã không có Pháp nào có Chúng Sanh? Đối với Bồ Tát có Vạn Pháp, không có Hoàn Cảnh, nên Bồ Tát Nhiếp Độ Vạn Pháp chẳng lưu tâm đến hoàn cảnh. Về Phàm Phu không thể nhìn đặng Vạn Pháp, chỉ nhìn nơi mình có hoàn cảnh, nên chẳng nhận ra Vạn Pháp.

Trong ba giai đoạn trên ba tư thế khác nhau, nơi tư thế Phàm Phu thấy hoàn cảnh thuận nghịch ràng buộc ngăn cách, lúc mong thoát khỏi Phàm Phu Tính đặng an nhiên tự tại thì phải tu Pháp Môn CỔI GIẢI TÂM lướt qua các Hoàn Cảnh được gọi là THÙ THẮNG TÂM, khi có Thù Thắng mới có Trí Tuệ để lãnh hội Vạn Pháp tu trì PHÁ CHẤP MÊ đến tỏ pháp Sở Đắc CHÂN KHÔNG đã qua đặng nơi hoàn cảnh của Phàm Phu Tính, liền sau lúc đó phải thật hành Hạnh Nguyện cốt qua con đường BỒ TÁT HẠNH để tròn các PHẨM NGUYỆN, có như thế mới đứng trong vòng THÁNH đoạt đến Sở Nguyện. Bằng chưa thật hành Hạnh Nguyện, xa lìa Đạo Tràng trong thời gian ngắn phải mắc miếu vương vào các pháp lộn vòng Chúng Sanh Giới lâm nơi KIẾN DỤC. Còn Chư Bồ Tát thật hành Hạnh Nguyện, từ ĐẠO đến PHẨM không thiếu sót cốt Nhiếp Độ Vạn Pháp để tỏ pháp trọn Chánh Giác, Chư Phật Thọ Ký Thành Phật.

Pháp Độ Chánh Báo Chư Phật trọn quyền Ấn Chứng Thành Phật, Pháp độ Chư Phật Vi Diệu như thế nên thời Quá Khứ Thượng Kiếp. ĐỨC THẾ TÔN chưa Thành Phật đang còn Tu Sĩ, Ngài đến Cung Kính Cúng Dường, Chiêm Ngưỡng Lễ Bái ĐỨC NHIÊN ĐĂNG PHẬT, Đức Nhiên Đăng Phật mới Thọ Ký Trung Kiếp thành Phật với Danh Hiệu: BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT. Sau Đức Bổn Sư Thể Hiện Chỉ Đạo Thọ Ký DI LẠC TÔN PHẬT cùng các hàng Bồ Tát đến các Bậc Hữu Học, Vô Học đều thành Phật mỗi thời tùy hỷ, nơi DIỆU PHÁP LIÊN HOA KINH, đó lời chân thành quyết định.

Nói về Chánh Báo Thân Phật trong thời THƯỢNG KIẾP đặng thành tựu đứng bậc nhứt. Thời nầy các bậc tu trì Chánh Tín có hằng hà sa số, vô lượng vô biên thành Phật, qua giai đoạn THƯỢNG KIẾP, yếu kém căn cơ sai phần Chánh Tín chẳng đặng như trước, nên rất hiếm thành Phật mà đa số thành Tiên Đạo gọi là Đắc Quả, đến phần sau nữa càng ngày càng sa sút chánh tín liền đắc quả nơi Thần Thánh Đạo .

Thần Thánh Đạo đến thời Trung Kiếp rất hiếm, Thần Đạo được tôn sùng, vì Nghiệp Căn cầu đảo điên loạn mơ màng thành thử thời bấy giờ đối với Pháp Độ Chánh Báo Thân Phật chẳng còn ai biết đến, duy chỉ phát sanh ÁC ĐẠO tế lễ bằng máu huyết trâu bò. QUỶ ĐẠO sát sanh cúng tế bằng xương thịt súc vật sống. THẦN ĐẠO đánh đập bùa chú. MA ĐẠO khỏa thể phơi xác ép thân làm cho tất cả sống nơi Chú Ngải cuồng tín chịu nơi Biển Sanh Tử Bệnh Lão Khổ, cũng không ngừng các mối Đạo sư ếm gieo rắc ghê sợ kể không hết đặng.

Trước khi Tâm Nguyện nói rõ đến đoạn này:

TỰ TẠI ĐẠI BI ban bố cho Tín Chúng PHÁP TẠNG PHẬT GIÁO VIỆT NAM, lập Đại Lễ Chiêm Ngưỡng lễ bái cung thỉnh ĐỨC GIÁO CHỦ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT Chứng Minh lời chân thành chủ yếu xưng tán pháp Tối Thượng mà Ngài đã từng Đại Bi chỉ dạy. Đến nay Hạ Kiếp lạc lối tu trở thành Hạ Pháp gọi là Mạt Pháp. Chúng con xin lễ bái đặng diễn nói lên lời chân thật, Cúng dường báo ân Đức Giáo Chủ cùng xây dựng ngôi Tam Bảo Chân Truyền, đồng thời mong cho các bậc tu Thức Tỉnh phát tâm trở thành Thượng Trung Hạ duy nhất.

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT

Lành thay! Lành thay! Đức Bổn Sư thể hiện đúng lúc vào cuối thời Trung kiếp, tuổi thọ của Nhân Loại đã giảm không ngoài 100 năm một kiếp. Ngài là vị cứu tinh. Ngài khéo đem Pháp Tối Thượng Chỉ Đạo. Ngài khéo đem Chánh Báo Thân Phật từ thời Thượng kiếp đã đặng hưởng đến cuối Trung Kiếp vẫn tồn sinh khỏi đoạn duyên Phật. Ngài tùy căn cơ, tùy vọng đảo, tùy mơ màng, tùy khởi niệm, tùy thọ ngã, sở ngã trụ chấp, tùy nơi chứng tri kiến chấp, tùy nơi Chánh Báo Phước Điền, Thọ Báo Ngạ Quỷ, Súc Sanh, Địa Ngục mà Ngài xướng lên 10 Danh Hiệu để cứu độ 10 lối nghi ngờ, 10 điều vướng mắc, 10 chốn thọ chủng Giới Sinh. Ngài lại chỉ bày Bốn Lối rành mạch tuyệt mỹ, để từng cấp, từng Bậc, từng hồi giảng giải cho các Bậc Năng Sở Kiến Tri Thọ Ngã trở thành Chính Kiến, thoát khỏi Kiến Dục, hoàn toàn Giải Thoát.

Thế nào là Bốn Lối Năng Sở Kiến Tri giải nói?

● Lối thứ nhất: NHƯ LAI PHÁP. Lối Như Lai Pháp nói pháp BÌNH ĐẲNG. Lối Như Lai Pháp xóa mờ Kiến Vọng, tiêu giảm vọng ước đảo điên tập nhiễm nơi THÁNH ĐẠO. THẦN ĐẠO. TIÊN ĐẠO. THIÊN ĐẠO nơi TAM THIÊN ĐẠI THIÊN THẾ GIỚI, Ba Cõi Sáu Đường, Ác Đạo, Quỷ Đạo, Ma Đạo, cho đến mộng tưởng Thành Phật Sở Đắc Chân Lý nơi KIẾN DỤC KIẾN NGÃ KIẾN CHẤP Vọng Ngã, Đảo Điên Mơ Màng, Cầu Mong thảy đều sạch sẽ, đưa cho các Bậc tu Chánh Kiến duy nhất Thọ Ký Chánh Báo Thành Phật.

● Lối thứ hai: Là PHẬT PHÁP nói về Quyết Chỉ Ấn Chứng Chánh Báo. ĐỨC BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT, Ngài đã từng nói tất cả sự Trang Nghiêm các Quốc Độ, tất cả Công Đức thành tựu sung mãn Chư Phật, các Tối Thắng Diệu Âm Chư Phật, các Ấn Chứng Thọ Ký trải khắp Chánh Báo Trang Nghiêm từng Quốc Độ Chư Phật. Ngài cũng đã nói lên nơi Chánh Tín Cúng Dường các hàng Đại Bồ Tát, các hàng Bồ Tát, các hàng Bồ Tát Ma Ha Tát cùng các Chư Thiên Hộ Pháp không thiếu sót ở nơi Kinh Pháp Vi Diệu Thậm Thâm để cho Nhân Loại tu tập Chánh Tín đặng Thọ Ký Thành Phật.

● Lối thứ ba: Là Bồ Tát HẠNH NGUYỆN, nói về Pháp Môn Nhiếp Độ, Pháp Môn Thu Nhiếp, Pháp Môn Tự Lợi Tha Lợi, Pháp Môn Lý Sự Đồng Tu.

Các Hàng Bồ Tát nương nhờ nơi Hạnh Nguyện có Trí Tuệ Giác Tâm, từ nơi Tâm Quán nhận thấy qua từng Pháp Môn Giải Thoát, qua từng Pháp Giới Giải Thoát, qua từng Năng Sở Trụ Chấp được Giải Thoát, qua từng Kiết Sử Nghiệp Lậu Giải Thoát, qua từng Thọ Ngã, Kiến Ngã, Chủng Ngã Giải Thoát, qua từng Sanh Diệt Diệt Sanh, Tu Chứng Vô Sanh Giải Thoát, qua từng SẮC-THỌ-TƯỞNG-HÀNH-THỨC Giải Thoát, qua từng THIÊN-TƯỞNG NHÂN-TƯỞNG CHÚNG-SANH-TƯỞNG THỌ-GIẢ-TƯỞNG Giải Thoát, qua từng Có-KHÔNG Thật Tướng Vô Tướng Tam Muội Pháp Môn Giải Thoát, qua từng Năng Sở Kiến Tri tập khí Giải Thoát. Hạnh Nguyện đến không còn môn Giải Thoát, đó là Giải Thoát.

● Lối thứ tư: Lối thứ tư nầy chung gồm các Pháp Môn chỉ dạy tu. Từ nơi Tu Tâm vì Tâm bó buộc, Tâm Vặc Mắc, Tâm Tham Vọng, Tâm Điên Đảo, Tâm Mong Cầu, Tâm Tự Ngã, Tâm Phân Biệt, Tâm Dị Biệt, Tâm Chướng Đối, Tâm Khinh Ghét, Tâm Chê Bai, Tâm Keo Kiệt, Tâm Ích Kỷ, Tâm Lừa Dối, Tâm Thù Hận, Tâm Tạo Tác. Do đó mà thở thành NGHIỆP, Tùy nơi Nghiệp sanh Hoàn Cảnh, Từ hoàn Cảnh sinh Ngăn Cách, bởi ngăn cách nên phải dùng Thù Thắng Tâm lướt qua các hoàn cảnh để mà tu, phải tu CỔI GIẢI TÂM cho đặng Thanh Tịnh Tâm Thọ Lãnh các Pháp. Lúc đã tỏ Pháp ít nhiều liền có Nghi Chấp, dụng Trí Tuệ phá Nghi giải Chấp. Đó chính là yếu môn thứ Tư vậy.

TỰ TẠI ĐẠI BI TÂM chẳng biết nói làm sao đây, Bốn Lối Chỉ Đạo tuần tự đón đưa linh động tuyệt mỹ làm cho tất cả Tứ Chúng đương thời của ĐỨC GIÁO CHỦ BỔN SƯ Giác Ngộ, thật vi diệu, thật tuyệt đích khó nghĩ bàn, khó tán thán lưu đến thời nay vẫn còn dấu vết Tam Tạng Kinh.

Tam Tạng Kinh đang còn giữa thời Hạ Kiếp, tuổi thọ Nhân Loại không đầy 80 năm trong một kiếp. Thần Đạo không còn, ÁC ĐẠO. QUỶ ĐẠO đã hết, vì nhờ Tiêu Giải Sát Sanh. Nhưng MA ĐẠO thịnh hành gấp vạn lần của thời Thượng Kiếp, Ma Đạo khôn khéo, bên trong Đạo Phật mượn Tam Tạng Kinh diễn nói, bên ngoài Đồng Bóng làm các Thần Linh.

Dù cho các Bậc tu hành Tín Tâm chăng, hoặc giả đã tìm đặng Chơn Tánh để tu nơi Tự Tánh, Nương vào Kinh Pháp chí Tâm đi nữa mà chưa tỏ rõ. Thế nào là Như Lai Pháp, thế nào Phật Pháp, thế nào Bồ Tát Pháp, thế nào Chúng Sanh Pháp để công dụng minh định tỏ rõ khỏi phải nghi ngờ, may ra tránh khỏi. Bằng còn nghi ngờ, còn chưa tỏ rõ vẫn bị lâm vào MA ĐẠO tàn phá.

Đến nỗi có những Bậc Minh Chánh tỏ rõ tỉ mỉ đứng ra Chỉ Đạo cốt đem đến nguồn sữa tươi nuôi dưỡng các con đang thèm khát, Thì MA ĐẠO tồi phá bên trong lập thành Đồ Chúng, bắt buộc đòi hỏi Minh Sư phải tuân theo Chương Trình bọn chúng. Chúng nào có tỏ rõ sự Giác Minh, chúng nào có biết được BỐN LỐI. Như Lai Pháp, Phật Pháp, Bồ Tát Pháp, cùng Chúng Sanh Tu Hành Pháp mà sử dụng Toàn Giác. Chúng chưa giảm TÁNH MA, chúng chưa Thật Hành Hạnh Nguyện, chúng chưa hoàn tất TỰ LỢI nơi mình, LỢI THA nhân loại. Chúng chỉ KIẾN DỤC chạy theo Danh Giả đòi hỏi thèm khát sự TÔN KÍNH bên ngoài mà trở thành như thế.

Có Bậc thật Tín Tâm tu lâu ngày chầy tháng, Trí Tuệ kém cỏi, Kinh Pháp dẫy đầy, thật đáng kính nể được ở nơi Kho Tạng Bảo Pháp. Nhưng chưa biết Sử Dụng Lời Vàng thì Kho Tạng trở thành vô giá trị. Chưa biết được nơi linh động cứu chữa căn bệnh mê lầm, cứ mãi ôm ấp lời Như Lai Pháp mà Thọ Ngã. Khi đã Thọ Ngã mới công dụng Giáo Phẩm của mình mà chỉ trích. Chớ có ngờ đâu lúc ĐỨC BỔN SƯ Ngài vì kẻ mơ ước THỌ NGÃ SỞ ĐẮC mà Ngài nói nơi Như Lai Pháp: NẾU CHẤP NHẬN MÌNH ĐẮC LÀ CHƯA ĐẮC. Cốt làm cho kẻ kia lìa Thọ Ngã. Đến nay Bậc Tín Tâm đem ra chỉ trích làm cho Tín Chúng tự hoá MA ĐẠO đua nhau tiêu diệt trở thành Tôn Chỉ Phật Đạo mất giá.

Từ Thân Tâm bên trong MA ĐẠO tàn phá, chỉ vì chưa Thật Hành Hạnh Nguyện, chưa thường tu Chủ Quán Tâm Giác cốt Giác Tâm đúng với Tinh Thần Phật Đạo, chưa Tỏ Tánh để nhận rõ BỐN LỐI mà sử dụng đúng lúc, đúng thời, đúng chỗ thì làm sao tránh nổi sự tàn phá của MA ĐẠO. Khi tu trì mong mỏi cho mau thành Đạo, tâm ý ưa chuộng nghe hoặc nghiên cứu Pháp nào là Pháp KHỎI TU mà Đắc Đạo, còn Pháp Môn phải tu thì cho đó là MÊ CHẤP, đâu có rõ Bậc đã từng rốt ráo mà phải Thọ Chấp Đạo Tràng. Đức Thế Tôn Ngài phải sử dụng Như Lai Pháp cốt làm cho Bậc Kia Chánh Giác.

TỰ TẠI ĐẠI BI TÂM, nói lên Thời Hạ Kiếp MA ĐẠO tàn phá PHẬT ĐẠO cực kỳ nghiêm trọng làm cho Phật Đạo chỉ còn Tấm Bảng Danh Hiệu, bên trong thì các Bậc Tu dật dờ theo Ma Chúng. Đến nỗi Nhân Loại bên ngoài phải kêu ca là MA GIÁO, một là Bất Tín, hai là Thức Tỉnh Chúng Tăng Phật Tử, nhưng nào có thấm vào đâu làm cho Nhân Sinh chẳng nơi nương tựa, chỉ còn có TIN vào ĐỨC BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT thời Trung Kiếp.

Đứng trước Thời Hạ Kiếp, đang ở giữa sự sợ hãi nghi ngờ Nhân Sinh. Dù cho có Minh Sư ĐẠI HÙNG ĐẠI LỰC minh xác huy hoàng cũng khó khăn trên con đường Chỉ Đạo, vì Bậc cầu đạo Chánh Tín chân thành hiếm hoi, chỉ có tu hành theo Tín Dụng, còn bên trong đeo đuổi Cuồng Tín để Tu, lỗi ấy chẳng do đâu mà có, bởi tại Thời Lạc Pháp mà ra, Vì sai hướng thiếu tình nên nó như thế.

KÍNH DÂNG PHỤNG HÀNH

Sau khi trích xong thời ĐẠO PHẨM, chúng con Tứ Chúng Mật Niệm chiêm ngưỡng ĐỨC LONG HOA TĂNG CHỦ đã mở màn chỉ điểm trong Thời Hạ Kiếp làm cho Đời nầy và Đời sau được quân minh, nhìn thấy tia sáng của ĐỨC CHÍ TÔN một Kho Tạng Bảo Châu vô giá của Pháp Tối Thượng. Dù cho chúng con có muôn ngàn Xưng Tán chẳng thấm vào đâu đối với LÒNG ĐẠI BI, ĐẠI HỶ, ĐẠI XẢ của ĐỨC NGÀI.

Hôm nay, chúng con Tứ Chúng Pháp Tạng xin đảnh lễ phụng ghi mong cho tất cả các bậc tu hành thức tỉnh, nhận biết được Thời Pháp nầy chính là một Thời Pháp Thừa Kế THƯỢNG TRUNG HẠ duy nhất để BÁO ÂN Chư Phật cùng Tam Thế Chứng Minh lòng thành của chúng con.

TRUNG ƯƠNG HỘI THƯỢNG Kính Dâng Phụng Hành
Tứ Chúng Đồng Phụng Ghi Để Phổ Truyền
Ngày 14 tháng 11 năm Giáp Dần.

27. SỰ TU HÀNH KHÓ MÀ KHÔNG KHÓ…

SỰ TU HÀNH KHÓ MÀ KHÔNG KHÓ, BIẾT NHẬN CHÂN MỚI THẬT LÀ KHÓ

Lúc bấy giờ vào khoảng 8 giờ 45 phút tối ngày 22 tháng 10 năm Giáp Dần (1974) tôi về đến Trung Ương Hội Thượng, ĐỨC LONG HOA TĂNG CHỦ từ Tịnh Thất bước ra Chánh Điện, chúng Tôi đồng lễ bái xong đâu đó ngồi theo thứ lớp, giữa sự hiện diện gồm có: Ông Tạng Nguyên, Ông Pháp Sử, Ông Tạng Dụng, Bà Diệu Thái, Bà Tạng Trình và Bà Pháp Tùng. ĐỨC LONG HOA TĂNG CHỦ Ngài dạy:

Các ông cũng nên biết, đối với Chân Lý nhà Phật, điểm khó nhất biết nhận và không biết nhận.

Khi chưa biết nhận được Chân Lý thì có đi tìm Chân Lý trên sơn lâm cùng cốc cũng chưa biết nhận lãnh để mà tu. Khi biết nhận lãnh ở ngay đô thị, quần chúng vẫn đoạt đến Chân Lý mà Giác Ngộ.

Do lẽ ấy mà ĐỨC VĂN THÙ Ngài nói:

– Chúng Sanh nó ở trong rừng thuốc của Như Lai có đầy đủ các môn thuốc chữa bệnh mê lầm cho nó, nó không nhận lấy để mà dùng, cứ mãi đi tìm trên ảo tượng, đó chính là điểm chứng minh.

Các ông cũng nên biết, khi có kẻ oán đời, giận đời, trách đời đủ trăm phương vạn lối, tự sanh bó buộc Tâm, đi tìm sự tu tập để xa đời lánh bạn. Đến khi họ nhận được, họ liền tự hỏi: Đời là gì? Thế gian hay Thế ngay? rồi họ tự trả lời: Đây chính là Thế gian, đến khi biết như vậy họ mừng rỡ vui thích vì họ đã ở ngay Thế giới gian xảo mà Tâm họ vẫn ngay thẳng, nên họ không oán thế gian, họ còn cho Thế Gian là trợ Đạo cho họ, đó chính là Bậc biết nhận. Bậc biết nhận chân được như vậy cũng gọi là Trí Tuệ, là cứu cánh giải thoát từng giai đoạn cổi giải Tâm, phá mê chấp. Khi biết nhận như thế, họ lấy đường dây trên để tu bằng cách tự cổi giải tâm, họ tự biết những đố tật nào của kẻ bên ngoài xấu xa, làm cho mọi người không ưa thích thì họ lấy đó tự tu sửa chính cho họ. Khi nhìn thấy bên ngoài có kẻ đoan trang, nói năng từ tốn làm cho tất cả ai cũng kính nể thì liền bắt chước sự đoan trang, sự từ tốn để cho họ được mọi người kính nể.

Các ông cũng nên biết, Tôi nói thời pháp trên tuy rất đơn giản, khi mà các ông biết nhận lấy nó nương theo đường lối ấy để mà tu, đương nhiên các ông vào Pháp Môn thực thể, tìm đặng Chơn Tánh mà Tu.

– Bằng các ông xem thiên kinh vạn điển, tư tưởng cầu mong Chư Phật chứng tri giúp đỡ các ông, mà đường tu của các ông chẳng thực thể là tu trên tưởng, chưa biết nhận chân.

Từ phàm phu tu hành đến Giác Ngộ, họ vừa hiểu biết được Pháp Môn nào thì họ liền đem Pháp Môn ấy ra ứng dụng thực hành trong một thời gian kết quả hoàn mỹ. Cũng như có một vị chuyên ròng dùng Nhẫn Nhục để mà tu, phải thi hành trước hoàn cảnh để mà Nhẫn Nhục đến nỗi sau khi Tâm không còn hờn giận dù vô tình, cố ý đương nhiên thành tựu, biết được pháp Nhẫn Nhục chính là một Pháp Môn tối diệu cắt tất cả các đường dây sanh tử lại trọn thân bằng quý hữu chín kiếp mười đời của họ. Vì sao? Vì cuộc sanh tử luân chuyển kiếp này qua kiếp nọ vô tình hay cố ý họ gặp phải người nóng giận mà tiền kiếp là ông nội hay ông cha, họ phát sanh đánh đập gây tạo nhân quả. Khi họ nhẫn nhục được, đương nhiên họ đã trả ơn cho ông nội hay ông cha của tiền kiếp.

Các ông cũng nên biết, đối với Đạo Phật, biết nhận thức Đạo Phật thì nên tu trì lý sự đồng song, khi mà lý sự đồng song thời mới biết Đạo Phật chính là một Chân Lý thực thể. Khi Bậc tu biết dùng Chân Lý thực thể thì luôn luôn con đường Giác Ngộ sẽ cận kề, còn chưa biết nhận lãnh thực thể thì dù có tu muôn kiếp cũng chẳng kết quả.

Chúng con được nghe Giáo Ngôn của ĐỨC LONG HOA TĂNG CHỦ, chúng con rất vui mừng vì Ngài đã khai thị cho chúng con biết ứng dụng Chân Lý Thực Thể khỏi xa lìa Thể Tánh. Bởi chúng con còn lầm lẫn nên ảo vọng cầu mong. Khi có ảo vọng thì vẫn còn tham vọng nên phải xa lìa Thể Tánh. Ngài đã Từ Bi chỉ điểm cho chúng con trên con đường PHẬT-PHÁP BẤT LY THẾ-GIAN GIÁC để hoàn mỹ TRI KIẾN GIẢI THOÁT.

VIỆN HỘ ĐẠO LONG HOA HỘI THƯỢNG
"Phụng Ghi Để Phổ Truyền"
Ngày 22 tháng 10 năm Giáp Dần

26. LỤC-BA-LA MẬT-ĐA NHIẾP ĐỘ LỤC-ĐẠO

Chúng tôi trong BAN HỘ ĐẠO, cùng Tứ Chúng PHÁP TẠNG PHẬT GIÁO VIỆT NAM Trung Ương Hội Thượng. Được ĐỨC LONG HOA TĂNG CHỦ cho phép trích trong BẢO PHẨM XUẤT THẾ CHƠN KINH về phẩm LỤC-BA-LA MẬT-ĐA nhiếp thâu LỤC ĐẠO. Để phổ truyền từ các Tỉnh-Thị-Hội, cho đến Quận Hội, Hội Sở, Chi Hội, Tứ Chúng đồng Phụng Hành.

LỤC-BA-LA MẬT-ĐA nhiếp độ LỤC ĐẠO như sau:

– Vì Tự Tại ĐẠI BI mới nói lên Pháp Tối Diệu này của Chư Bồ Tát thường phụng hành để nhiếp độ Lục Đạo, cứu độ Chúng Sanh trong Ba Cõi Sáu Đường làm phẩm Công Đức Cúng Dường Chư Phật. Bậc Tu Hành luôn luôn đang nằm nơi Lục Đạo, không chịu tu trì phụng hành Bố-Thí Trì-Giới Tinh-Tấn Nhẫn-Nhục Trí-Tuệ Thiền-Định thời chẳng bao giờ tỏ thông các Pháp, không dùng Công Đức nhiếp độ Lục Đạo, thì không bao giờ thoát khỏi Ba Cõi Sáu Đường mà Sở Đắc Thật Chứng.

Bồ Tát Hóa Độ Giới sinh trong Lục Đạo Pháp Giới. Bồ Tát thật biết sự lầm lẫn chia ra nhiều Pháp Giới trùng trùng Pháp Giới, nhưng do căn khởi trở về khởi căn mà thụ thai sanh trưởng Lục Đạo làm nơi an trụ Chúng Sanh, khi tập nhiễm Thọ Chấp, hoặc lúc chưa tập nhiễm không thọ chấp vẫn phải vướng mắc nơi Lục Đạo đã có vướng mắc, vương mang thì nên thi hành hóa độ mới rốt ráo, bằng chưa thi hành hóa độ chưa bao giờ rốt được. Vì sao? Vì trót đạp phải gai, khi biết mình đạp gai phải nên lấy gai để giải gai. Lúc trót lầm huyển phải dụng huyển để tu, huyển hết đương nhiên Giác Ngộ, chớ không đi vào huyển không bao giờ thâm nhập Giác Ngộ đặng.

● BỐ THÍ NHIẾP ĐỘ ĐỊA NGỤC

Bậc Tín Tâm cầu đạo thường hướng thượng tu theo Bồ Tát Hạnh vẫn dùng phẩm Công Đức cấu tạo Công Năng thọ trì Bảo Pháp nên chi lập Bố Thí Nguyện để nhiếp độ Địa Ngục, thường Hành Thâm trên con đường khổ mới phát lời Nguyện rằng: Tôi chịu nhận lấy cái khổ để cho Chúng sanh được thoát khỏi Địa Ngục, nhờ lời phát nguyện ấy mà bậc tu hành mới thoát khỏi Địa Ngục nhiếp độ Địa Ngục.

Chư Bồ Tát nhận lãnh phẩm Bố Thí giúp đỡ cho Chúng Sanh, cúng dường Chư Phật. Hằng đem bộ óc tìm nơi mê lầm đen tối của Chúng Sanh đặng giải mê phá chấp, Chúng sanh qua đặng cơn đen tối mê lầm, tai của Chúng Sanh biết nghe Pháp, óc của Chúng Sanh được viên thông chỉ nương nhờ pháp Bố Thí của Bồ Tát mà thành tựu.

Bồ Tát thật biết pháp Bố Thí là một Bảo Phẩm thoát trần lao Địa Ngục, nên Bồ Tát nguyện đem thân mạng cứu giúp cho Chúng Sanh bằng cách mở Hội Trường chỉ dạy Đạo Đức tu học, ban cho thuốc men trong lúc bệnh hoạn nguy kịch, Bồ Tát tự tay cứu chữa rất nhiều căn bệnh từ thân mạng đến Trí Tuệ mê lầm thảy đều chữa trị không chối cãi, miễn Chúng Sanh vui Bồ Tát được vui.

Bồ Tát lại đem tài lực cứu độ bằng cách thành lập Đạo Hạnh, chỉ dạy Bố Thí trai đàn để vãng sanh Địa Ngục, dụng tài chánh xây chùa, dựng tháp Đa Bảo, dùng lễ bái cúng lạy chiêng trống tràng phang Bảo Cái quyết lòng trên cúng dường Chư Phật, dưới Bố Thí Chúng Sanh để nương nhờ phẩm Bố Thí mà cứu độ Chúng Sanh thoát nơi cực khổ không ngừng của Địa Ngục.

Bồ Tát đã thi hành phẩm Công Đức Bố Thí, Bồ Tát thường bảo trì Bố Thí, vì bảo trì nên Bồ Tát không kể ơn nghĩa trong phẩm Bố Thí, nhờ không kể ơn nên Công Đức Bố Thí được trọn Ba La Mật Đa hoàn mỹ.

● TRÌ GIỚI NHIẾP ĐỘ NGẠ QUỶ

Khi biết được Bố Thí là nhiếp độ Địa Ngục, liền tự kiểm kê lấy công năng tu tập nơi mình giới hạn Đức Tánh nơi nào còn chênh lệch thiếu sót, đúng đắn với một Chân Phật Tử hay chưa đúng đắn, lúc bấy giờ mới tùy khả năng Công Đức bảo trì tư cách cùng ngôn hạnh đặng khỏi vương vào Ngạ Quỷ. Bậc này thật biết, Ngạ Quỷ hay buông lung, ngôn hạnh bừa bãi, tánh nết không chừng, do không chừng như thế nên chi sự tiêu xài quá lố, đến lúc keo kiệt thì quá kể, lại ưa xu nịnh điêu ngoa để tìm lối ăn tiền bạc rượu chè của kẻ khác, lại thường vui thích nơi ăn chơi bài bạc làm nơi sở thích chính mình, khi chẳng thỏa mãn, hận thù sân si, chém giết phải sa nơi Địa Ngục.

Do thật biết nên mới dùng pháp Trì Giới để nhiếp độ Ngạ Quỷ, vì Trì Giới nên mới sửa sang Đức Tánh quân bình, nói năng từ tốn, tiêu xài vừa giới độ của mình, không bừa bãi, cũng không keo kiệt, lại thường dùng trang nghiêm đúng đắn giúp đỡ cho tất cả mọi người không kể lể chẳng dục lợi riêng nơi mình mà làm thiệt hại kẻ khác, đó chính là Trì Giới Ba La Mật Đa.

● TINH TẤN NHIẾP ĐỘ SÚC SANH

Súc Sanh chính là một Pháp Giới, nhẹ nhàng đưa tất cả từng lớp Dục Vọng vào nơi Sanh Tử. Súc Sanh có một sức mạnh vô biên, nó là một pháp Ái Khả đứng nhất, nó đưa đến cho Chúng Sanh mê man trong vòng Dục Vọng mơ ước đòi hỏi theo nó, nó lại tạo cho Chúng Sanh đi nơi Ái Dục Ái Nịch không ngừng, nó cảm hóa Chúng Sanh phải dùng cái sống nơi nó mà gợi lòng tham muốn nơi SẮC, THINH, HƯƠNG, VỊ để cầu van cho thỏa tình Dục Vọng, thèm khát xin xỏ theo con đường Sanh–Diệt, Diệt–Sanh không ngừng nghỉ.

Từ một nơi SẮC-PHÁP HOA-MỸ, nó gợi cho luyến ái, khi đã luyến ái đương nhiên sanh Tình Ái, từ nơi tình ái không rời sinh ra Ái Nịch, nơi ái nịch thỏa thích dục vọng sinh ra Ái Dục. Khi đã ái dục liền tạo thành Danh Vọng thèm khát mong chờ theo Danh Vọng đuổi bắt, lại còn mong cầu nơi danh vọng có đầy đủ Hương Vị Hạnh Phúc, lúc có hương vị liền mong mỏi Địa Vị, trong vòng quanh quẩn chỉ có Sắc-Thinh-Hương-Vị mà phải lâm vào nơi Xúc Pháp.

Khi bị thất bại về Địa Vị liền sinh lòng buồn khổ, thường hay oán đời sa vào Địa Ngục. Lúc Hương Vị mất thể diện thì Danh Vọng phải mất Tâm sanh buồn chán, sống trong vòng phiền não sa vào Địa Ngục. Khi thất bại trên con đường Tài Chánh, ái nịch, ái dục bị thất vọng, khổ sở than phiền sa vào Địa Ngục. Lúc không thỏa mản nhu cầu, Danh Vọng tiêu hao, tiền bạc không còn, đương nhiên Tình Ái mất hẳn, bị phụ bạc sinh ưu phiền khổ sở, than khóc không ngừng sa vào Địa Ngục.

Bậc tu pháp Tinh Tấn không ngừng nghỉ để nhiếp độ các Dục Vọng mơ ước, lìa các Danh Giả Hương Vị, mục đích hàng phục, điều ngự Tâm để khỏi sa vào Súc Sanh Giới. Càng Tinh Tấn bao nhiêu thì còn Công Đức bấy nhiêu, càng Công Đức bao nhiêu lại tạo Công Năng đầy đủ để lướt qua các nơi Tham Vọng ảo tưởng của Súc Sanh Giới. Đó chính là Bậc biết nhiếp độ Súc Sanh. Còn bậc chưa được tỏ rõ, chỉ hiểu biết có một khía cạnh nào thì bậc này chỉ biết Dâm Dục là Súc Sanh, khi tu mong thoát khỏi Súc Sanh bằng cách ly dục mà trở thành chưa trọn Súc Sanh Giới vì sao? Vì Ly Dâm Dục, tu nơi Dục Vọng, tu trong Dục Vọng tham muốn mong cầu trở thành Tiên Đạo. Duy nhất chỉ có SẮC - THINH - HƯƠNG - VỊ mà không nhiễm mới qua nổi, bằng nhiễm thì đương nhiên phải bị, đó chính là yếu tố trong Ba La Mật Đa Nhiếp Độ vậy.

● NHẪN
NHỤC NHIẾP ĐỘ A–TU–LA.

Pháp Giới A-Tu-La là một pháp Nóng Nảy thường tạo Vô Minh, thường tồi phá Phẩm Hạnh, thường làm đổ vỡ phẩm Công Đức, do lẽ ấy bậc A La Hán nóng nảy không khác nào bưng Ngũ Độc để uống. A Tu La lại thường tạo nên Nghiệp, tạo nên sự tranh giành gây gỗ, vô tình làm thành đường dây Sanh-Tử Luân-Hồi vô tận.

A Tu La pháp giới có hai Chánh Báo cùng chịu báo.

– Lối thứ nhất, bậc gieo trồng Đức Hạnh, Bố Thí Thân Tâm quảng đại, cứu giúp cho tất cả mọi trường hợp ngặt nghèo, không kể lể miễn sao tạo được Phước Điền, nên chi từ trên đến kẻ dưới thảy đều quý mến. Nhưng vì Nghiệp Chủng A Tu La chưa dùng Nhẫn Nhục để Nhiếp Độ do lẽ ấy mà hơi trái với thâm tâm liền nổi nóng, la hét tạo thành vô minh chủng nghiệp, sau khi Chánh Báo đặng mức Tiên Thần, tức là vị Thần ở cõi Thiên. Còn một bậc nữa vẫn dụng Đức Hạnh bố thí, thân tâm quảng đại, cứu giúp kẻ nghèo khó, nhưng lập Phước Đức nhỏ nhen không bằng bậc trên đã nói, cũng chỉ vì Pháp Giới A Tu La dằn lòng chẳng đặng, vẫn được Chánh Báo Thần Hoàng hay Thổ Địa.

– Lối thứ hai, kẻ này thường dùng cá tánh bảo thủ, gặp trường hợp trái ý liền sân hận, thù hằn, nóng nảy, chưởi bới, hăm dọa, đâm chém, lấy hung bạo để làm mức sống, lấy uy quyền dọa nạt kẻ hiền lành, lấy địa vị để chiếm đoạt gia tài hay tiền bạc, kẻ ấy thường cấu tạo Vô Minh, nhưng thật chẳng biết mình đang uống phải Ngũ Độc A Tu La Pháp Giới, ngỡ mình là anh hùng can đảm. Đến lúc mạng Căn hết sanh về A Tu La Quỷ. Còn nhẹ hơn kẻ nói trên, có một lương tâm suy nghĩ biết hối cải thì được sanh vào Thần Quỷ A Tu La. Bọn Quỷ A Tu La là một cảnh giới tắm bằng lửa, uống bằng lửa, sống trong lửa, còn Thần Quỷ A Tu La thì thường ở nơi cây cao bóng mát, hay bắt bớ để kiếm ăn bằng cúng lễ các Miếu ngã ba hay bên sườn núi.

Pháp Hạnh Nhẫn Nhục mới có thể đối trị nhiếp độ A Tu La thôi, ngoài ra không có Pháp nào đối trị để nhiếp độ đặng, bởi như thế nên chi Chư Bồ Tát phải dùng, Chư Phật đã dùng, hôm nay bậc Tu đang dùng Nhẫn Nhục nhiếp độ tánh nóng nảy của Chủng Tánh A Tu La, cốt dứt nghiệp quả của quá khứ, hiện tại thề nguyện nhiếp độ đoạn.

Bậc tu Pháp Hạnh Nhẫn Nhục thật biết pháp Nhẫn Nhục cao quý vô giá, vì sao? Vì dùng Nhẫn Nhục vừa nhiếp độ A Tu La lại vừa nhiếp Tâm đang đứng trước kẻ ngạo mạn nóng nảy họ đã lầm lẫn nung đúc A Tu La chạy vòng nơi Nhân Quả Luân Hồi.

Bậc nhiếp độ rõ biết Chủng Tánh A Tu La là một chủng tánh gây tạo Vô Minh nghiệp quả trở thành Nóng Nảy thiêu đốt Phúc Quả, thiêu đốt Thiện Căn, tồi phá Trí Tuệ, dung dưỡng Bản Ngã, nuôi nấng Tự Ngã càng ngày càng thêm Thọ Nghiệp. Hôm nay dụng Nhẫn Nhục nhiếp độ nơi mình, cùng giúp cho kẻ gần mình được sự nhiếp độ tránh khỏi A Tu La, phát Bồ Đề Tâm Nguyện.

Bậc tu Pháp Hạnh Nhẫn Nhục nhiếp độ A Tu La tỏ rõ, khi kẻ đang thọ nghiệp chủng tánh A Tu La liền chưa có Phật Tánh, nên chi nóng nảy chém giết sa nơi Địa Ngục, đến lúc từ một NHẪN biết hối cải ở nơi Địa Ngục Nhẫn Nhục đương nhiên Phật Tánh lộ diện mà thoát khỏi Địa Ngục. Do thật biết A Tu La Chủng Tánh làm cho Phật Tánh không thể nào lộ diện nguy hại như thế nên mới Nhẫn Nhục để nhiếp độ, khi đã nhiếp độ đặng A Tu La thì Thân Tâm Thanh Tịnh, Sở Đắc Bình Đẳng Tánh Trí đồng với Diệu Quang Sát Trí thoát khỏi A Tu La pháp giới. Bằng chưa Nhẫn Nhục nhiếp độ thì dù cho có Sở Đắc Chân Lý thành Phật chăng cũng là Phật Thể Hiện Hóa Độ A Tu La thôi.

● TRÍ TUỆ NHIẾP ĐỘ NHÂN

Trong Lục Đạo không có nơi nào thường chấp cho bằng Nhân Đạo, do thường chấp như thế Tâm phân biệt theo ý thức. Khi Nhân Sanh phân tách từng ý thức để rõ biết thì cái biết kia nó đã nằm nơi Ý Thức Hệ, ý thức hệ chính là một hệ thống Pháp Giới, do lẽ ấy nên chi học hỏi từng hệ thống ý thức bao nhiêu lại càng cố thủ để thọ chấp bấy nhiêu, càng học rộng trở thành bậc Trí Thức bao nhiêu lại càng bị đóng nơi khuôn thường chấp bấy nhiêu. Bậc Trí Thức phần nhiều tu tập khảo cứu nghiên cứu bao nhiêu thời nhiễm nơi Trí Thức pháp giới bị biết, rất hiếm bậc Tự Biết có Trí Tuệ thanh thoát, do đó nên mờ tối đâm ra mê tín, bởi lầm mê nơi kiến thức của mình.

Căn bệnh thường chấp, thường cho lẽ phải nơi mình hơn hết chính là một căn bệnh trầm trọng khó giải vì bệnh thường chấp nên chi phát sanh thường nghi, gọi là Nghi Chấp, đã nghi chấp đương nhiên mỗi Nhân Sinh đều cố thủ lẽ phải nơi mình, nghi kẻ nọ không biết mình cho mình là Quấy, trở thành nghi người đến mình vẫn bị mình nghi lấy.

Nói đến bệnh Thường Nghi, Thường Chấp trên Ý Thức đến Trí Thức chia ra nhiều giai cấp, nhiều trình độ, nhiều ý nghĩ khác nhau trở thành khắc biệt không đồng, nên mới có sự tranh giành từ quyền lợi đến ý thức hơn thua nhau thật là vô kể. Đối với Nhân Sinh Pháp Giới vì thường nghi chấp nên nếp sống trong vòng 20 năm liền có một năm tụ tập để chém giết nhau, 20 ngày sẽ có nửa ngày gây gỗ, 20 giờ liền có 05 phút ganh tị hoặc ghét ghen, mãi cứ chống trả nhau nơi sự bất đồng chỉ vì riêng tư nơi thường chấp.

So đến các nơi như: Địa Ngục Pháp Giới chỉ có một căn bệnh ở trong Cái Khổ, mong thoát khỏi nơi Khổ, khi đã thoát được là toại nguyện hồi hướng.

So Ngạ Quỷ có mỗi một căn bệnh tham lam ăn xài tiêu phí riêng cho mình, lại hay keo kiệt đối với kẻ khác, nếu đặng như ý cầu liền toại nguyện, bọn Ngạ quỷ rất ít nghi chấp, ưa bạn bè, thường gìn giữ Ẩm Thực và Tài Chánh cá nhân.

So với Súc Sanh chỉ có ước mơ Sắc Pháp Hoa Mỹ, lại đi nơi ái dục ái nịch nhiều hơn, ngoài ra họ vẫn dễ dãi ít nghi chấp, có khi họ thường trao đổi vợ chồng trong chốc lát làm thú vui giữa buổi dạ hội, nếu được như ý họ liền toại nguyện.

Về A Tu La có căn bệnh Nóng Nảy vội vàng bộc phát, sau khi hết cơn thường hay tự hối, lại cũng thường hay tự phát. Nếu bình thường rất ngay thẳng chân thật, chừa bỏ Cổi Giải được liền toại nguyện.

Tự Tại Đại Bi Tâm nêu rõ ra đây để các bậc tu nhận thấy, căn bệnh THƯỜNG CHẤP, chính là một căn bệnh đảo điên đòi hỏi quá nhiều, do nơi Tham Vọng sinh điên đảo nên phải dùng Trí Tuệ Nhiếp Độ giải mê, phá nghi chấp, phải dùng Trí Tuệ Nhiếp Độ Trí Thức, dùng Đại Trí để Nhiếp Độ Ý Thức, dùng Tạng Thức Nhiếp Độ Đại Trí đưa về Như Trí đến Như Lai Tạng, thông tạng Giác Ngộ.

Đại Bi Tâm do tình duy nhất mà nói lên Sự Thật, không sợ độc ác, chỉ sợ không biết hối cải, không đáng sợ bừa bãi nghinh ngang, ăn xài quá lố, keo kiệt nơi cá tánh mình, mà đáng sợ chưa biết hối cải. Không sợ Sắc Pháp hoa mỹ, ái dục chìm đắm mà chỉ sợ không biết ăn năn hối cải. Không sợ Nóng Nảy chém giết gây nhiều tội lỗi phá chùa, phản thầy phản bạn, mà đáng sợ chưa ăn năn sám hối. Khi bậc đã ăn năn sám hối chừa bỏ không tái phạm lỗi lầm việc đã làm trước, nay thề nguyện không làm. Từ một phàm phu lầm lẫn, nay nhất tâm niệm một câu CHÁNH NIỆM liền thành Phật.

● THIỀN ĐỊNH NHIẾP ĐỘ THIÊN

Môn Thiền Định chính là một môn Nhiếp Độ Chư Thiên cũng là một môn Trí Tuệ Diệu Giác Viên Minh, tỏ rõ hiện tại đang làm, vị lai phải đến.

"Có làm mới thấu trắng đen.
Chưa làm chỉ nói đã thèm thế thôi.
"

Bậc bước vào Tu Thiền đến khi dùng Thiền Định để Nhiếp Độ Chư Thiên, Bậc này thi hành nơi Lục Đạo ít nhiễm, vì sao? Vì bản năng Thường Nhiễm, Thường Trụ, Thường Chấp, chính là một nguồn mê đang tập nhiễm nơi Lục Đạo, nếu chưa Tu Thiền hoặc giả tọa thiền đơn giản Tâm lại thường mắc miếu nơi nghi chấp, chớ chưa lướt qua giai đoạn Nghi Chấp Phá Chấp Nghi, tỏ thông vạn Pháp.

Tu Thiền có một Trí Tuệ siêu thoát, nhận tỏ được lỗi lầm chính bậc tu đang vấp phải, rõ biết được những điểm sai vọng ở nơi mơ ước của vọng thức, thần thức viễn vong, còn có thể gìn giữ mục tiêu để đào tạo Chánh Giác, gọi là lập trường Bất Diệt Không Hai Tướng.

Tu Thiền thật biết sát thật. Chư Thiên, Chư Tiên cùng tất cả Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới, mỗi một Chủng Tánh nào Chánh Báo nơi cõi nào, quyết định không sai chạy, hoặc giả đến nơi Chánh Báo Cảnh Giới, tuổi thọ nơi cảnh giới đó được hưởng bao nhiêu, lúc nào là lúc diệt vong, khi nào là khi thành tựu, thật biết chẳng khác nào kẻ biết đặng tuổi thọ của hoa trái, tuổi thọ của các loài Phù Dung, loài trùng loài dế cùng các loài khác ở nơi quả Địa Cầu này vậy. Do thật biết như thế nên chi Thiền Định để nhiếp độ thật rõ ràng tận biết Chư Thiên Tiên Thần không tập nhiễm cầu mong Thiên Tiên Thần để mà mình Chánh Báo nơi đó làm chi, nhờ biết được biết tỏ rõ nên Tâm không còn Tham Vọng mà hoàn toàn Giải Thoát khỏi Lục Đạo.

Bậc Tu Thiền và kẻ chưa Tu Thiền, Tướng thấy đồng nhau, nhưng Tánh thấy khác xa vạn dặm, nhờ dùng nơi Tánh Thấy mà thấy được Giác Minh, thấy được Thật Tướng về Như Tướng, nhờ Tánh Thấy mà thật biết tỏ rõ Chủng Tánh của Chư Thiên, Chủng Tánh Chúng Sanh, Chủng Tánh Bồ Tát, Chủng Tánh Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh, đến A Tu La nơi Lục Đạo thảy đều tỏ rõ chẳng khác nào thấy được đứa bé đang cười vui thích khi cha mẹ cho quà mừng rỡ vậy.

Bậc Tu Thiền và kẻ chưa Tu Thiền, Cái Biết đồng đẳng, nhưng Tánh Biết khác xa muôn thế kỷ, nhờ nơi tận biết như thế mà có thể biết được Quả Địa Cầu này, tôn sùng các Chí Tôn Phật Đạo, Thiên Chúa cùng các Bậc họ đã Cung Kính Tôn Sùng. Vậy thì muôn ngàn vạn Hành Tinh khác, mỗi Hành Tinh đều có mục đích nơi họ Tôn Sùng Cung Kính những Vị đang Tôn Kính. Biết đến tận biết như thế, bậc nầy mới du hành dạo khắp, đồng hiện theo sở cầu của mỗi Hành Tinh để Nhiếp Độ, bằng lời lẽ diễn giải đúng theo tinh thần mong mỏi của hành tinh để cho chúng họ vui vẻ an lành Thân Khẩu Ý mà phát Bồ Đề Tâm Nguyện tu sửa tùy theo mỗi nơi mà Thọ Ký.

Bậc Tu Thiền thật biết Nhân Sinh Quan. Thiên Sanh Quan. Tiên Sanh Quan. Thánh Sanh Quan chung gồm các cõi cùng các Giới thảy đều dùng Ý Thức Hệ cực đối của Cảnh Giới hay Cõi hoặc Thế Giới của mình phân tách minh định tạo thành. Bậc Thiền định biết rõ họ đang theo dõi sống nơi mê man hoài ảo, nếu họ dùng đặng Trí Thiền Định họ liền tự biết nó không khác mấy với con Diều Giấy đang bay trên hư không, mà kẻ nắm dây Diều chính là một đứa bé đang vui thích mừng rỡ vì con Diều không thể nào ra khỏi đường dây của nó vậy .

Bậc Tu Thiền còn nghe được hơi thở của loài thảo mộc, cây cối cùng Quả Địa Cầu nhịp nhàng động thở cho đến tiếng Nhạc Trời của Chư Thiên trổi lên từng lúc thanh bình, nhờ nghe như thế, nhờ thấy như vậy, nhờ biết tường tận những gì mà tất cả đang lầm tưởng, do nơi lầm tưởng đương nhiên mong ước, do mong ước nên mới có gây ra được mất hơn thua tranh giành với nhau từng lúc, từng hồi và từng kiếp đâm âu lo sợ sệt chết sống không biết nó sẽ về đâu? Nếu tất cả thảy đều biết rằng: Từ Quả Địa Cầu cho đến các Cõi hoặc các Cảnh Giới, các Hành Tinh nơi Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới này. Sau khi mãn phần trong một kiếp có đủ quyền thụ thai hay hóa thai, sanh thai bất luận nơi nào cũng được, không phải cầu mong mà nó đến. Duy Nhất đồng hiệp Chủng Tánh nó liền về ngay nơi hiệp.

Tất cả đã lầm, tưởng mình sau khi mãn phần hết kiếp vẫn sanh trong Quả Địa Cầu nầy, hoặc mình là người thời được sanh làm kiếp con Người, có kẻ lại lầm khi mình chết là mất. Nếu chính mình lầm tưởng mình làm người sau mãn kiếp vẫn sanh làm người. Thì loài Trâu, Bò, Chó, Ngựa cùng các loài khác nó cũng yên trí như thế, còn kẻ cho chết là mất thật quá ư lầm lẫn những lỗi lầm trên chỉ có bậc Trí Tuệ Thiền Định thật biết tỏ rõ tỉ mỉ. Mỗi một Bậc khi mãn phần hết kiếp thì từ nơi Quả Địa Cầu nầy, liền thoát sanh qua trăm ngàn Quả Địa Cầu khác, đến nơi đồng hợp với Đức Tính, đồng hợp với cử chỉ liền được sanh nơi đó, rất hiếm Bậc đặng đồng sanh nơi mình mới vừa thoát để sanh.

Lại có Bậc từ Quả Địa Cầu nầy, lúc mãn phần vừa mới được thoát sanh liền được sanh phải lướt qua trăn ngàn Cảnh Giới hoặc lướt qua trăm ngàn Cõi, Cảnh Giới nào hay Cõi nào đồng hợp với Đức Tánh Cử Chỉ liền được sanh nơi đó. Bậc Thiền Định thật biết trên Quả Địa Cầu nào bất luận, hoặc Cõi nào bất luận, hay Cảnh Giới nào bất luận thảy đều sắp xếp có Lục Đạo nơi đó để an bài cho những kẻ, những bậc đồng hiệp mà tự sanh nơi Pháp Giới Lục Đạo tại đó.

Bậc Thiền Định rất tường tận thật biết, cứ mỗi một kiếp như thế được thai sanh làm Người quá khó, vì sao? Vì nơi tư thế của con người có thể kiến tạo được nền Đức Trí vững chãi, có thể Tu Phật thành Phật, tu Tiên thành Tiên, có thể giải mê hết chấp trở nên Bậc Thánh. Đó là một cơ hội may mắn hiếm có. Nếu đã làm người chưa biết tạo lập một phước điền, chỉ biết có mưu sanh đời sống cung đốn cho dục vọng, lòng tham bảo thủ cá tánh riêng mình sung sướng, thì chính mình tự phá hoại nhân cách nơi mình.

Đến lúc mãn phần phải trả những gì mình đã làm trước, đó chính là món nợ mình đã vay lấy, từ nơi ẩm thực vui thú đã giết các sanh vật như kẻ cướp lấy thân của chúng làm món ăn nhậu tế lễ hoặc đình đám vui nhộn, miễn lúc bấy giờ mình thỏa thích, còn về phần chúng bị khổ đau thảy đều phải trả.

Do hành sự như thế nên chi con người nào có Diễm Phúc nhứt thời 100 năm được sanh vào một kiếp làm người, lại tùy theo nơi sống của con người ấy, khi mãn phần còn thừa bao nhiêu thì phải tuần tự trả nợ miệng trong kiếp làm người đã sát hại chúng. Đó mới nói về điểm chính, còn các điểm khác chưa kể đến.

Ngoài ra có những con người quá ư tàn bạo như buôn bán thân mạng loài vật, dụng thân tạo nghiệp bằng cách trộm cướp, dụng ý tạo nghiệp bằng mưu sĩ, lừa gạt, sát hại người, dụng khẩu tạo nghiệp bằng tư cách nói dối, nói làm thiệt hại người, nói làm cho suy đồi Phật Đạo, nói cho kẻ nọ hận người kia, thì không thể nào quyết đoán được bao nhiêu năm mà họ được tái sanh làm người.

Chỉ trừ Bậc Bố Thí khuyên người Bố Thí, Trì Giới, Tinh Tấn, Nhẫn Nhục đồng khuyên người Trì Giới, Tinh Tấn, Nhẫn Nhục. Bậc nầy không sát sanh thường khuyên người không sát sanh, tạo Phước Thiện, tạo Công Đức khuyên người tạo phước thiện, công đức.

Nương nhờ phẩm Công Đức thường khuyên người giúp đỡ cho người, quyết định không làm điều quấy trái với lương tâm Nhân Đạo, lại bày cho người khác y như mình đã làm, cố tạo cho mình Đức Trí, khuyên người nên lập Đức Hạnh, lần đưa cho họ Trí Tuệ. Bậc đã như thế không bao giờ phải trả, hay phải vay món nợ miệng được, vì sao? Vì đã từng gieo Đức nhiều mà tội ít, làm sao có chỗ trả?

Đoạn trên Tự Tại Đại Bi quyết chỉ pháp tối diệu mà Bồ Tát đang thi hành, Chư Phật đã thi hành để sung vào phẩm Công Đức cúng dường tạo Công Năng Thọ Lãnh Bảo Pháp. Đó chính là Phẩm NHIẾP ĐỘ LỤC ĐẠO chính mình đặng hoàn toàn thoát khỏi Lục Đạo.

Đại Bi nói một cách thiết thực để cho các Bậc tu hành hồi tỉnh nhận được lời nói nầy thì tránh khỏi tập khí sanh tử của Lục Đạo, lại tỏ rõ Chân Lý tuyệt đối mà Chư Phật đã ra chẳng biết bao nhiêu Công Trình tâm huyết, mong đời nầy cùng đời sau nhận chân được nó để mà tu, thì nền Chánh Pháp vẫn trường tồn vĩnh cửu nơi Đông Độ.

Dù cho Bậc có một Trí Tuệ cứu cánh, sạch tất cả những lý giải Chân Như chăng, hoặc giả có Bậc đã từng Tọa Thiền có Trí Tuệ Thiền Tọa, hai Bậc nầy hay nhiều Bậc khác tương đương trình độ. Nhưng chưa thi hành Hạnh Nguyện nhiếp độ Lục Ba La để ngộ nhập đoạt đến Mật Đa, thì những Bậc ấy vẫn còn tập khí sanh tử nơi Lục Đạo. Đó chính là một lời dĩ nhiên phải như thế.

VIỆN HỘ ĐẠO LONG HOA HỘI THƯỢNG
"Đồng Phụng Chép Để Phổ Truyền"
Ngày 22 tháng 9 năm Giáp Dần

25. VỀ PHẨM TU TÂM, trích từ BẢO PHẨM XUẤT THẾ CHƠN KINH

Lúc bấy giờ vào khoảng 20 giờ 30, ngày mồng 6 tháng 9 năm Giáp Dần (tức ngày 20.10.1974). Nhằm chủ nhật theo buổi sinh hoạt, cũng được ĐỨC LONG HOA TĂNG CHỦ khai thị. Tại Trung Ương Hội Thượng, trời bên ngoài thì mưa tầm tã, Tứ Chúng tề tựu đầy đủ, thật là một buổi sinh hoạt đi trên mưa gió về Trung Ương để lãnh hội thời Pháp khai thị. Trước Chánh Điện hương trầm nghi ngút vi diệu trang nghiêm. Tứ chúng một lòng chiêm ngưỡng cung nghinh ĐỨC LONG HOA TĂNG CHỦ. Ngài từ Tịnh Thất bước ra Chánh Điện, Tứ Chúng Đồng đứng dậy Đảnh lễ, xong đâu đấy ngồi theo thứ lớp. ĐỨC LONG HOA TĂNG CHỦ Ngài dạy:

Các ông hãy nhìn lấy tôi để làm gương mà tu, đối với Tôi tay không lìa máy đánh chữ, CHÍ không lìa soi giúp đỡ sự lầm lẫn của các ông trên con đường tu tập. Nhưng rất tiếc thay, lời chỉ dạy của Tôi không thiếu sót, mỗi tháng ra bốn bài Giáo Ngôn, ngoài ra còn có rất nhiều Thời Pháp phụ thuộc để dạy bảo, không bao giờ Tôi chán nản. Vì sao? Vì Tôi phục vụ một cương vị Chỉ Đạo, một bổn phận trách nhiệm Tỏ Đạo, đưa các ông vào con đường Giải Thoát thật sự. Tôi không bao giờ trách các ông, nhưng Tôi chỉ khuyên các ông nên cổi giải các NGHIỆP, khi Nghiệp đã biếng trễ nó kéo lôi các ông được, thì đương nhiên Chân Lý nó phải mơ màng khó nhận định, khi nó đã mơ màng khó nhận liền bước vào con đường vọng đảo, trong lúc vọng đảo làm gì Sở Đắc Chân lý hữu hiệu.

Tôi vì hiện hành phục vụ cao quý của Chánh Giác Bảo Truyền, nên diễn nói đầy đủ tất cả khía cạnh, lưu lại đời này và đời sau lần lượt có nhiều bậc Tu Chứng. Hôm nay trước sự hiện diện giữa Tôi và các ông, Tôi chẳng tiếc Công của Tôi, nhưng rất tiếc công của các ông biếng trễ, nhìn thấy Bảo Vật mà không biết dùng Bảo Vật, nhận được Thiện căn cao quý mà chẳng thật hành để thành tựu đến Thiện căn quý cao. Biết rằng Bảo Pháp Bất diệt, mà chẳng biết bảo trì nơi Bất Diệt, lại theo điên đảo diệt sanh. Do lẽ ấy nên hôm nay Tôi cho các ông được trích lại một đoạn ở tập BẢO PHẨM XUẤT THẾ CHƠN KINH, để các ông làm một bản đồ tu Tâm rất rõ ràng, không sai một mũi kim hoặc một sợi tóc, không sai với tinh thần hai chữ Chân lý Phật Tôn. Ngày nay nó lạc pháp, Hạ Lai, Tận Độ. Bài này là một bài rất hữu hiệu hiện tại của các ông đang mơ màng nơi tu tập. Đoạn kinh này là đoạn các ông đang cần thiết. ĐỨC LONG HOA TĂNG CHỦ dạy xong, Tứ Chúng đồng đảnh lễ cung tiễn Đức Ngài trở về Tịnh Thất. Tứ Chúng ai nấy vui vẻ phấn khởi vì được sự chấp thuận của ĐỨC LONG HOA TĂNG CHỦ, cho trích một đoạn trong Kinh Bảo Phẩm Xuất Thế, mà mấy hôm nay Ngài Đã nhập vào Chánh Định tạo thành.

Lúc bấy giờ, trong Tứ Chúng đề cử mỗi chúng một Đại diện lên Đảnh lễ ĐỨC LONG HOA TĂNG CHỦ, đồng thời để thọ lãnh Bảo Phẩm Chơn Kinh Xuất Thế.

 * * * * * * *

BẢO PHẨM CHƠN KINH XUẤT THẾ đoạn Tu Tâm, Ngài dạy:

Thứ nhất tu Tâm, trước tiên thành thật Tâm, thiết tha Tâm đồng phát Bồ Đề Tâm nguyện, sau Tâm nguyện Tâm, huân tập Tâm, làm cho Tâm nọ phát triển trở thành Thù Thắng Tâm, công dụng Thù Thắng Tâm để tu. Bằng chưa có Tâm Thù Thắng, thì có tu chăng vẫn tu nơi cầu Phước, tu để làm lành thế thôi.

Sau khi đã có Tâm Thù Thắng thời dùng Tâm ấy lướt qua các hoàn cảnh, các trở ngại ngăn chấp, các chướng đối trái tai gai mắt như Tịnh Bất Tịnh không vì lý mà chướng, chẳng vì Sự mà ngại, các vọng đảo nghi chấp nơi Tâm thảy đều giải nghi phá chấp, làm cho Tâm suông chảy không mắc miếu, Tâm đặng phân minh Đạo Tràng mà Thanh Tịnh Tâm, Tâm đặng thanh tịnh chính nương nhờ Hỷ Xả Cổi Giải vặc mắc mà Tâm mới được Thanh Tịnh, chớ chẳng phải tìm nơi vắng vẻ mà Thanh Tịnh Tâm, đó là yếu điểm cần ghi nhớ.

Lúc đã sở đắc Thanh Tịnh Tâm nhìn lại con đường Tu Tâm mới thấy được các pháp Tịnh Bất Tịnh do Tâm Năng Biệt nên Bị Biệt, các Chướng Đối trái tai gai mắt, bởi Nghiệp Thọ Ngã mà ra liền Sở Đắc Nhãn Tịnh đồng Nhĩ Tịnh. Lúc đã đến Nhãn Tịnh, Nhĩ Tịnh thì cái NGHE cái THẤY trước cảnh Sắc Trần Thinh Pháp chẳng còn ngăn cách chướng đối như trước kia nữa, Vì Sao? Vì nó đã thành tựu kết chung hai Tướng về với một Tướng.

Thế nào là hai Tướng về với một Tướng? Tướng NGHE, tướng THẤY là hai, đều trả về trở thành Tướng Tâm. Khi Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhơn thành tựu đặng mức Tướng Tâm thì cái Nghe Thấy nó không còn bị Nghe bị Thấy, nhờ chẳng Bị nên không chướng ngại biệt phân, nó dung thông vô ngại, có Vô Ngại như thế nên dù nghe lời Tịnh Bất Tịnh thảy đều lời Phật Pháp chẳng chướng đối. Thấy những nơi gai chướng nó ít lưu tâm để thọ chấp, Tâm thường thanh tịnh rỗng rang, phát Trí Tuệ tìm Chân Giác.

Mới nhận được Các Pháp vốn KHÔNG, do lầm mê năng sở tri chấp phải vướng mắc vạn Pháp trong Sanh Tử Tử Sanh liền đắc pháp Chân Không Thanh Tịnh, nhìn khắp sơn hà Đại Địa Chân Không, nhìn đến Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới chẳng còn, Tâm vô ngại Tâm kia mừng rỡ rỗng rang chẳng còn ngăn ngại lấy một pháp nào chứa đọng, trong một thời gian tối đa ba tháng đương nhiên vô ngại Tâm phát khởi nghi ngờ Năng Sở Kiến Tri trở về vạn Pháp tìm tòi cái gì của nó để an trụ Tu Chứng.

Này Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhơn, bậc tu tâm đứng giữa tình trạng này bậc tu sở đắc rốt ráo hay chưa đặng rốt ráo nơi tu chứng của Thiện Nam, Thiện Nữ khó diễn nói cho đặng, vì sao? Vì nó chính là một ngã ba chia ra rất nhiều bậc tu chứng, nó lại tùy theo Năng Sở Tri của mỗi bậc mà thành tựu quả vị.

Nếu là bậc có căn bản Bồ Tát Nguyện thì bậc này thường tự kiểm soát lấy mình Đạo Hạnh Trí Tuệ nương theo Bát Nhã Tâm Kinh làm tấm gương soi sáng lần tiến để tu. Trên cung kính Tam Bảo, dưới lục hòa Tín Chúng, phát Tâm Công Đức làm Bảo Phẩm Chánh Giác, bằng cách Hạnh Nguyện Hành Thâm Pháp Giới, Tự Lợi, Tha Lợi làm an vui trú nơi Đạo Tràng, bậc này thật biết pháp Bất Tịnh vô ngại con đường Bất Tịnh, nhưng chẳng bao giờ thi hành cho Dục Vọng Bất Tịnh, bậc này rất biết nghịch hành ngạo mạn hay Tăng Thượng không chút sợ sệt, nhưng chẳng bao giờ nghịch hành, chẳng bao giờ Ngôn ngữ ngạo mạn Tăng Thượng, vì sao? Vì gìn giữ Phẩm giá Đạo Tràng, Bảo Trì ngôi Tam Bảo như gìn giữ thân mạng mình để cho kẻ khác khỏi đoạn duyên Phật mà chính bậc này đã thi hành thành tựu Nhất Hạnh Tối Thượng làm Bảo Phẩm báo ân Chư Phật.

Này Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhơn, đắc pháp Chân Không tức là tỏ rõ Pháp Chân Thật của Không. Chân Không là nơi Tạm Trú của Bồ tát, lúc Bồ Tát Hạnh Nguyện Hành Thâm Pháp Giới làm lợi khí áo giáp Bát Nhã Ba La Mật Đa để cho Tâm rũ sạch lỗi lầm phạm giới, lại rũ sạch các Nghiệp Thức lầm nhận được từ Thanh Tịnh đến Đại Thanh Tịnh, khỏi nơi than van ân hận tâm mà bước qua Nghiệp quả do Tâm vọng gây tạo.

Chân Không nó có rất nhiều lớp, nhiều thứ bậc, từ phàm phu chấp trụ đến Chư Thiên lập trụ, cùng Chư Tiên Thần an trụ, Ngoài ra Chư Bồ Tát tạm trú Chân Không khi bậc tu Tâm đắc Pháp Chân Không chính là một Pháp áo giáp Bát Nhã Ba La Mật Đa để cho bậc tu mang vào khỏi vướng mắc các Pháp, nó cứu cánh Tối Diệu thậm thâm. Nếu kẻ chưa biết dùng nó ngỡ mình đã Sở Đắc Chân Lý, đoạt Vô Thượng Chánh giác, liền mang thêm vào tham vọng ngạo mạn Tăng Thượng phải sa vào tà Kiến bị báo nơi Địa Ngục A Tỳ.

Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhơn, nên nhớ lời nói trên, phải tự lượng chỗ nghi ngờ chưa tỏ rõ nơi mình mà nương theo vết chân Chư Bồ Tát Nguyện Bồ Tát Hạnh đặng tu lấy Tâm thông đạt tâm, sạch sẽ Tâm Không chổ chỉ mới là Chân Tâm.

Nếu chẳng như thế thì dù cho gặp Bậc Thiện Tri Thức đứng trước mặt mình là Phật chỉ dạy mình chăng nữa, cũng không thể nào đưa nổi mình đặng. Chính tự mình nâng mình Chánh Kiến, cũng do mình đem mình vào Tà kiến, do chính mình đưa mình đến Tịnh Độ hay lạc vào Tiên Đạo. Lỗi ấy không phải lỗi của bậc Chỉ Đạo mà chính lỗi ấy do nơi mình thường chấp cái biết của mình gọi là: Năng Sở Kiến Tri mà mình lãnh lấy Chứng vị.

Có những năng sở kiến tri gì phải bị sai lạc như thế?

– Một là thường chấp cái thấy biết của mình, mộng tưởng điên đảo cứu cánh Niết Bàn an trụ tu chứng. Dùng Định tưởng, huân tập tâm nơi sắc Pháp thành tựu thọ chấp Tu Luyện mà lâm vào Định tưởng trở thành Hữu Dư Niết Bàn sai lạc vào Tiên Đạo hoặc Đắc A La Hán.


– Hai là thường chấp nơi Thanh Tịnh của mình, bậc này trên vẫn gìn giữ Đạo Hạnh, vẫn tự kiểm soát lấy mình, trên cung kính Tam Bảo, dưới Lục Hòa Tín Chúng, lấy Đạo Tràng an vui sở trú, thật biết tất cả Tịnh Bất Tịnh, ngạo mạn tăng thượng, nhưng chẳng làm cho Công Đức nơi mình tổn thương. Duy chỉ có lập Thanh Tịnh làm nơi Năng Sở Kiến Tri mà huân tập Tâm trong thời gian thật chứng TỊNH ĐỘ, còn một lối về Tịnh Độ là lối ép Tâm, Hỷ Xả chướng ngại gìn giữ Thanh Tịnh được độ, gọi là Tịnh Độ được độ.

Ba là lúc Sở Đắc Pháp Chân Không rỗng rang Thanh Tịnh, nhìn trên Tam Thế, nhìn đến Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới tất cả Vũ Trụ Sơn Hà Đại Địa đều Chân Không, Tâm vô ngại kia mừng rỡ chẳng còn ngăn ngại lấy một Pháp nào chứa đọng, liền vội vàng Năng Sở Kiến Tri Thọ Chấp KHÔNG. Do lẽ ấy Tâm Thanh Tịnh trở thành Tâm Vô Ngại, có Vô Ngại nơi không kia mà phát sanh ngạo mạn Tăng Thượng phóng đạt buông lung bước vào đường Bất Tịnh, Nghịch Hành lung lạc để thỏa mãn nhu cầu tham vọng, cứ ngỡ rằng mình Sở Đắc Chánh Giác tối thượng, nên thường dùng câu: Không Trụ Không Tu Không Chứng làm nơi Tâm vô ngại, do đó Tâm liền phát sanh Tăng Thượng, cười chê các bậc Tu Hành, các phẩm Đạo Hạnh, Công Đức đều là lầm lạc, Đạo Tràng phẩm Công Đức, Hạnh Nguyện thảy đều bó buộc trói mình, lại so nơi mình và Chư Phật bình đẳng hoặc chính nơi mình còn hơn thế nữa, mà phải lâm vào TÀ KIẾN.

Này Thiện Nam Tử, Thiện Nữ Nhơn, ba lối Tu sai lạc trên, các Thiện Nam, các Thiện Nữ hãy xem kỹ đọc tụng rõ ràng để mà Tu, nó duy nhất đúng sai chỉ có: THƯỜNG CHẤP THẤY BIẾT CỦA MÌNH, gọi là Năng Sở Kiến Tri Thọ Chấp, trở thành Chứng Vị sai lạc khác nhau, sinh ra nhiều thứ lớp Chứng Tri khác biệt.

Bậc căn bản Bồ Tát Nguyện, bậc này không bao giờ dùng Năng Sở Kiến Tri nơi mình để Thọ Chấp, vì sao? Vì bậc nầy thường kiểm soát, suy ngẫm lấy chính mình, từ cử động đến Ngôn Hạnh để mà Tỏ Ngộ tu đến Rốt Ráo Chánh Giác, do lẽ ấy mà không có Năng Sở để Kiến Tri chủ thủ. Bậc Bồ Tát Nguyện thật biết, những loài Thảo Mộc Hoa Trái đến thời đơm bông trổ nhụy, thì đương nhiên nó phải đơm bông và trổ nhụy không cần đem thứ chi đổ trên hoa nhụy của nó. Trên bước đường Tu Tâm cũng thế, nên không dùng Định Tưởng để an trụ, không dụng Thanh Tịnh để Thủ Chủ, không dùng tất cả để Thọ Chấp mà trái lại trọn tất cả Chánh Giác.

Đối với Tăng Thượng Nghịch Hành ngạo mạn, bậc Bồ Tát Nguyện rất thịnh trọng, rất chu đáo, không thể nào hành sự được vì sao? Vì mục tiêu Chánh Báo nơi Báo Thân không quái ngại chi tất cả nhưng rất cần thứ lớp Trang Nghiêm, lúc lập hạnh Trang Nghiêm đương thời Chánh Báo Trang Nghiêm, Chánh Báo Trang Nghiêm do đâu mà thành Tựu?

– Do Chân Tâm phổ chiếu, do Thanh Tịnh đến Đại Thanh Tịnh tỏ rõ tỉ mỉ Thật Giác mà Thành Tựu, vì lẽ ấy nên không hành sự Tăng Thượng Nghịch Hành ngạo mạn. Lại nữa, vì lòng Tha Lợi Độ Sinh nên mới gìn giữ Đạo Tràng, gìn giữ ngôi Tam Bảo để tưởng niệm Công Đức vô lượng vô biên Chư Phật đã Tha Lợi thi hành cứu giúp, hôm nay nguyện nương theo dấu vết Chư Phật thi hành Phật Sự đặng duy trì Bảo Pháp không ngừng dứt. Nhờ Bồ Tát Đại Nguyện như thế nên chi khỏi vào nơi cuồng vọng, khỏi bị dục vọng sai khiến, lại khỏi lầm lẫn nơi Tà Kiến.

Đại Nguyện Bồ Tát thật hành mà phát Tâm ngăn trừ các vọng khởi, mong cầu ham muốn, nên Tâm không có chỗ THAM để VỌNG, không vọng nào có ĐẢO, không Đảo cũng không Vọng, đương nhiên không Tham, đã không còn nơi Tham thì liền Sở Đắc Đại Thanh Tịnh.

Khi Sở Đắc Đại Thanh Tịnh. Bậc nầy đã từng nương nhờ VÔ NGÃ, đã từng lìa Bản Ngã cùng Ngã Sở nên Tâm mới đặng thông, gọi là Tâm Thông, nhờ Tâm Thông nên mới Nhiếp Thâu tất cả các Năng Sở Thọ Ngã của những bậc vọng đảo chứng, tu mà tỏ rõ tất cả từng thứ lớp căn bệnh chấp thủ, liền Tu Chứng Bản Thể Tâm thành tựu Chân Tâm.

Chân Tâm Bất Sanh, Bất Diệt, Bất Cấu, Bất Tịnh, đồng hợp Như Lai Tạng liền tự sanh Diệu Giác Minh để soi khắp Pháp Giới, Soi khắp tất cả ẨN HIỆN không thiếu sót, liền Sở Đắc TỔNG TRÌ ĐÀ LA NI TẠNG, nơi Tổng Trì Đà La Ni Tạng nầy, nó đã có rất nhiều Công Năng mới thành tựu, từ Tu Tâm đến Tâm Vô Ngại, từ Vô Ngại đến Tự Tại Tâm, từ Tự Tại Tâm đến Đại Bi Tâm. Từ Đại Bi Tâm đến TỔNG TRÌ ĐÀ LA NI TẠNG.

BAN HỘ ĐẠO LONG HOA HỘI THƯỢNG
“Đồng Phụng Chép Để Phổ Truyền”
Ngày 06 tháng 8 năm Giáp Dần

24. ĐẠO PHẬT TU TÂM CỐT GIÁC TÂM

Lúc bấy giờ vào khoảng 21 giờ ngày 25 tháng 8 năm Giáp Dần, tức là ngày 10.10.1974. Sự hiện diện giữa chúng tôi gồm có: Ông Pháp Tràng, Tạng Nguyên, Pháp Hậu, Bà Pháp Tùng, Tạng Trình và một số Tín Chúng ngồi chung quanh ĐỨC LONG HOA TĂNG CHỦ. Ngài bảo tôi lấy bút để ghi chép Giáo Ngôn. Ngài dạy:

– Các ông cũng nên biết ĐẠO PHẬT chính là một mối ĐẠO lấy TÂM làm gốc để Tu gọi là TU TÂM đến GIÁC TÂM mà GIÁC NGỘ, đó là cơ bản mục đích của Đạo Phật. Nhưng tất cả trót lầm lẫn bị NGŨ ĐỘC đang chìm đắm trong Sanh Tử lầm mê, dù cho bậc Tu muốn lấy TÂM để TU TÂM thì Tâm ấy chính là Tâm Vọng làm thế nào Tu được Tâm? Cũng như kẻ đang ngủ trong giấc ngủ làm sao mà trở thành thức được? Đó chính là một yếu điểm của cuộc giải Mê. Cho nên nói đến đã Mê, khi bậc Tu dù có phá Chấp-Mê chăng nữa cũng chỉ loanh quanh phá Mê để mà Mê chứ không bao giờ đến Giác. Dù cho có bậc Chân Thành Kính Bái để mà Tu thì đương nhiên sự Chân Thành Kính Bái kia vẫn còn nằm trong mê man lầm lẫn của Kính Bái Chân Thành, chẳng đi vào đâu cả, chỉ được Phước Báo Nhân Thiên thôi, trừ ra gặp THIỆN-TRÍ-THỨC Ấn Chứng Chỉ Điểm, lúc bấy giờ mới Giác Ngộ Viên Minh.

Trường hợp gặp bậc THIỆN-TRÍ-THỨC chỉ điểm mà trái lại bậc Tu kém TIN VÂNG cũng khó thành tựu. Thật là một then chốt của nghìn xưa đến ngày hôm nay vẫn còn đang tái diễn giữa sự hợp hóa tương sanh.

Ngài nói xong trầm ngâm một lát, trên Chánh Điện hương tỏa ngào ngạt. Tứ Chúng lặng yên tịch tịnh, bỗng nhiên Ngài dạy:

– Hôm nay tôi khai thị cho các ông, để các ông được tỏ rõ trên sự Tu Tâm chủ yếu Giác Tâm để Giác Ngộ.

Các ông cũng nên biết, nếu các ông lấy Tâm Giác để mà soi đó chính là các ông đã Tu Tâm. Lấy Tâm Giác để mà biết, mà nghe, mà thấy đó mới gọi là Tu Tâm. Bằng chẳng vậy thì dù cho các ông có Tu hàng vạn Tâm, triệu Tâm cũng không bước vào được một tia sáng đến TÂM GIÁC để soi.

Thế nào là dụng TÂM GIÁC để soi?

Các ông soi trong hoàn cảnh, đứng giữa hoàn cảnh, vấp phải hoàn cảnh ngặt nghèo, đói khổ, sướng vui, chết sống, nếu các ông soi dùng Tâm Tín Thành tu cầu thoát khỏi trần lao khổ sở trong mọi hoàn cảnh để Xuất Ly, mặc dầu sự Tu cầu soi ấy có thành tâm sở nguyện Tri Kiến Giải Thoát chăng, cũng chẳng phải các ông dùng Tâm để Tu Tâm đặng đến sở nguyện của các ông. Vì sao? Vì các ông đang đứng tư thế Hữu Vi Sắc Phần làm mục tiêu sở cầu đều bị Vọng Tâm, không thể nào thấy Tâm cầu chứng, đã không thấy Tâm làm sao Tu Tâm? đã không Tu Tâm thì làm sao Chứng Tâm?

Bằng các ông cứ dùng Tâm Giác cố thủ để soi trong thời đang có hoàn cảnh nói trên. Nếu các ông chẳng soi vào hoàn cảnh trên, lại soi công năng Tu Tập, Phước Báo, giúp kẻ đang bị hoàn cảnh như các ông, sự Tu hành Hạnh Nguyện của các ông mỗi ngày thảy đều tăng trưởng từ Trí Tuệ đến Phước Vân Điền. Chừng ấy, các ông mới nhận thấy chính mình giàu quá kể. Đó là các ông đã dùng Tâm Soi Tâm đến Giác Tâm.

Hai nữa, các ông đang mong tìm nhận định Chánh Báo hiện tại theo nguyện vọng sắc phần của các ông, hoặc giả các ông mong tài phép danh giả làm nguồn an vui hiện hữu đến cho các ông, những điểm ấy thảy đều là cái Vọng Tâm Sắc Phần Tướng Pháp, chẳng bao giờ tu đến Chân Tâm Tròn Giác.

Chỉ trừ ra các ông dùng TÂM GIÁC để nhận biết hiện tại các ông đang ở nơi TÒA BẢO PHÁP, cùng chung với một mục đích của Chư Phật đồng Chư Bồ Tát Nguyện, xây đắp Chánh Báo, được xem Kinh Pháp, được nghe Giáo Ngôn, trí tuệ tăng trưởng, phước điền bồi dưỡng, thời các ông mới nhận thấy Chánh Báo hiện tại đã có hưởng, vị lai sẽ trọn hưởng, đó là nguồn an vui đứng nhất, đó cũng là Tu Tâm biết khai Tâm đến Tâm Giác trọn vẹn Giác Tâm.

Ba nữa, ví như các ông muốn tìm xem Ông Tri Huyện có Đạo Đức, hoặc vị Học Giả có phải nhân tài hay bậc Thiện Trí Thức có Giác Ngộ chăng? Lúc bấy giờ các ông đến xem xét châu thân của các bậc ấy để tìm nơi Đạo Đức, tìm tư cánh nhân tài hoặc tìm cái Giác Ngộ của mấy bậc kia thì chẳng bao giờ nhận thấy mà trái lại phải bị nơi lầm lẫn si mê vọng loạn của Tâm. Bằng các ông đến Công Đường để nhận biết khi ông Tri Huyện đang phân xử, các ông phải có Tâm Giác để nhận biết, chừng đó mới thật biết được ông Tri Huyện Đạo Đức. Còn vị Học Giả hay bậc Thiện Trí Thức có phải là nhân tài hay Giác Ngộ chăng? Ít ra các ông cũng có một đôi chút về Tâm Giác Nhân Tài hay Tâm Giác phần nào về Giác mới nhận được, bằng chẳng như thế khó biết Tài, Giác của hai vị.

Nếu các ông Tu Tâm thì các ông phải nên quán xuyến bằng Tâm Giác để soi biết, chớ chẳng nên dùng Sắc Pháp Tướng Phần phải bị trong vòng Vọng Tâm khó mà đến nơi thật NGHE THẤY BIẾT. Cũng như: khi tôi nói các ông NGHE, chẳng nhận nghe trong mục đích chính, thì các ông BỊ NGHE nơi THINH PHÁP. Bằng tôi CHỈ để biện minh Giác Tâm của các ông, các ông chưa nhận thấy, thì cái Thấy BỊ THẤY nơi SẮC PHÁP. Nếu tôi bày để các ông BIẾT nhưng các ông chưa rõ biết thì cái biết kia nó phải nằm nơi BỊ BIẾT chớ chẳng bao giờ được Biết. Do lẽ trên nên Phật thường nói: Xem Kinh Pháp để nhận biết, chính là bậc biết xem Kinh, Bằng xem Kinh để xem Kinh, đọc Kinh đặng có đọc Kinh thảy đều trong vòng Sắc Pháp Tướng Phần bị biết hay bị thuộc Kinh thôi. Vì sao lại phải như thế?

Vì Sắc Pháp Tướng Phần thuộc về Đạo Hạnh Sắc Tướng, còn Tâm thuộc về Chân Giác. Khi Tâm bị Vọng Giác nọ bèn đảo điên tạo Vô Minh che Chân Tâm Trực Giác, bởi nó như thế nên Bậc Tu thiếu sự nhận biết để Thọ Lãnh Kinh Pháp.

ĐỨC LONG HOA TĂNG CHỦ Ngài dạy đến đây Ngài bảo ông Tạng Nguyên châm trà, Ngài dùng tách trà xong, Ngài dạy tiếp:

Các ông cũng nên biết, Đạo Phật luôn luôn Tu Tâm cốt Giác Tâm, từ thời quá khứ ĐỨC THẾ TÔN cùng Chư Tổ đã khai thị đầy đủ các khía cạnh, nếu thiếu sót thời vị sau nầy kế tiếp bổ túc thêm cho dễ hiểu đặng dễ nhận lãnh mà Tu. Tuy nhiên sai khác lời lẽ, chung lại chỉ một mục đích mà thôi. Các ông mặc dù có Tín Tâm Tu Phật, có Chí Nguyện đến Công Năng, nhưng chưa hiểu thông đường lối thì dù có Tu đến vạn kiếp sở cầu cũng khó mà đạt đến BẢN THỂ TÂM, ít nhất phải có sự chỉ điểm cho các ông, lần đưa các ông tu tập mới đến đích. Khi đã có Bậc Ấn Chỉ Khai Thị trái lại các ông chưa Phát Tâm, chưa Thật Hành cầu Đạo Tối Thượng thì chẳng bao giờ kết quả đặng, các ông nên ghi nhớ.

Bài Giáo Ngôn hôm nay là một cây kim chỉ nam, các ông nên xem kỹ, nhớ kỹ thi hành tu tập, lúc chưa hiểu sau được hiểu, khi chưa biết lần đến tự biết, đem đến cho các ông thật NGHE THẤY BIẾT, chẳng khác nào Chư Bồ Tát thời trước đã phụng hành bài nầy, đến lúc khai thông sở đắc mới tán thán đồng thưa thỉnh với ĐỨC THẾ TÔN rằng:

Bạch ĐỨC THẾ TÔN, chúng con chưa đặng Nghe, hôm nay được Nghe. Chúng con chưa đặng Thấy, hôm nay được Thấy, chúng con chưa đặng Biết, hôm nay được Biết. Chỉ vì nhận được Nghe mà biết Nghe. Nhận được Thấy mà Biết Thấy. Nhận được Biết mà trọn Biết. Nhận đặng TÂM GIÁC mà đến Giác Tâm vậy.

ĐỨC LONG HOA TĂNG CHỦ Ngài vừa khai thị xong, chúng tôi được thọ lãnh, mới hay Tu nơi Hữu Lậu Tướng Phần dù cho có công dụng Tâm chăng cũng chỉ là Tâm Tín Ngưỡng, Tâm Duyên Lự, Tâm Tu Cầu Chánh Báo Nhân Thiên chớ chưa hẳn Tu Tâm để đến Giác Tâm bất diệt.

Thật Ngài đã Từ Bi tỏa ánh Từ Quang soi sáng Vô Minh để cho chúng con nhận tỏ rõ Tâm Giác tu đến Giác Tâm, xa lìa vọng thức đảo điên, cứu cánh Giải Thoát.

Chỉ vì chúng con tập nhiễm Tướng phần nên mới bị Tướng phần cầu đảo mộng tưởng cứu cánh Niết Bàn, đòi hỏi Chánh Báo, thọ chủng tử sanh.

Chúng con nguyện phụng hành phổ truyền giúp ích cho những bậc tu, từ đời này đến đời sau Tâm Niệm.

VIỆN HỘ ĐẠO LONG HOA HỘI THƯỢNG

"Phụng Ghi Để Phổ Truyền"
Ngày 25 tháng 8 năm Giáp Dần

23. CÁI MÊ CHÍNH NÓ KHÔNG GỐC

Tôi về Trung Ương Hội Thượng vào lúc 21 giờ ngày 24 tháng 07 năm Giáp Dần tức ngày 10 tháng 09 năm 1974, theo như thường lệ mỗi tối, tôi thẩy đều về Trung Ương Hội Thượng đặng gần Đạo Hữu, Đạo Tràng làm nguồn an ủi duy nhất của đời tôi. Khi tôi về đến nơi nhận thấy có sự khác lạ khó nghĩ bàn hơn các buổi trước, ĐỨC LONG HOA TĂNG CHỦ Tĩnh Tọa Trang Nghiêm, hiện diện gồm có: Ông Tạng Bửu, Tạng Nguyên, Tạng Tích, Pháp Bách, Bà Pháp Tùng, Bà Tạng Trình cùng một số Tín Chúng đồng ngồi quanh Ngài lặng lẽ. Tôi bước vào lễ bái xong ngồi lại một bên, Ngài bảo tôi đem bút chì ghi chép Giáo Ngôn Ngài dạy:

– Các ông cũng nên biết, CÁI MÊ CHÍNH NÓ KHÔNG GỐC, nếu Mê nó có gốc thì chẳng bao giờ Tu Giác Ngộ. Ngài nói xong trầm ngâm chốc lát rồi dạy tiếp: Nhưng kẻ đã trót Mê thì cái Mê nó liền có Nguồn Mê của nó để mà Mê. Thế nào là Nguồn Mê? DUYÊN KHỞI SANH TÂM đó là nguồn mê, khi đã có Tâm sanh, Tâm nó liền có Tánh, đó là Nguồn Mê. Tánh ấy phải có Thức, đó là Nguồn Mê. Thức thì linh động di chuyển không ngừng, bởi bậc Tu hay kẻ chưa Tu mong cho Thức ngừng an trụ mà trở thành Nghiệp. Đó chính là Nguồn Mê trong tứ thời lầm lẫn từ trên xuống dưới để Thọ Chấp làm Chúng Sanh Giới vậy.

Hôm nay tôi ra thời Giáo Ngôn này chủ yếu dạy, đồng chỉ rõ sự Mê lầm của Tứ Thời để cho các ông nhận định rõ biết khỏi Thọ Chấp, khỏi An Trụ để mà Tu, đồng thời lưu lại cho đời này, đời sau làm một hướng chỉ Đạo, Tu Tứ Thời trở thành mục tiêu Tu Chứng, từng cấp bậc cao thấp khác nhau, rốt ráo hoặc chưa rốt ráo mà thành tựu vậy. Đó là thời Giáo Ngôn tùy nghi xử dụng tín dùng.

Các ông cũng nên biết: Buổi ban đầu bậc Tu hành bước vào ngưỡng cửa nhà Phật, phát Bồ Đề Tâm thì trước tiên phải thi hành Giải Nghiệp, nói đến Nghiệp, mỗi bậc Tu đều có Nghiệp, kẻ chưa Tu vẫn có Nghiệp, Nghiệp nó sai khác nhau tùy theo tư tưởng Thần Thức năng chấp trụ, tùy theo lớn nhỏ rộng hẹp của ý Thức trở thành Nghiệp, tùy theo Nghiệp Thức thọ chấp, nhưng cốt yếu muốn tu, phải giải Nghiệp mới tu. Nghiệp thì thật nhiều vô kể, nó có đủ khía cạnh mà Thọ Nghiệp.

Do lẽ ấy, nên bậc tu dùng đủ phương tiện, đủ phương pháp, tiêu trừ Giải Nghiệp. Sự Giải Nghiệp tùy theo Trí Tuệ lướt qua hoàn cảnh, tạo công năng Giải Nghiệp, cứ giải bớt Nghiệp bao nhiêu thì Trí Tuệ tăng trưởng thọ lãnh Bảo Pháp bấy nhiêu. Công năng Giải Nghiệp giúp cho bậc tu mau đến Sở Cầu, Sở Nguyện thành tựu, dù tu hành chưa có kết qủa chi cho lắm, nhưng có thật hành Giải Nghiệp, đặng Phước Báo Nhân Thiên, khỏi sa ba đường ác Ngạ Quỷ, Súc Sanh, Địa Ngục. Nếu tu hành quyết tâm trừ giải, đánh đổi lề lối sống nhỏ nhen của đời, để tiến đến con đường Đạo rộng rãi thanh thoát chứng quả, thì rất cần đến Pháp môn Giải Nghiệp. Khi Giải Nghiệp rạng rỡ liền đặng chứng tri Tiên Thần hay sanh về cõi Trời nơi Tam Giới.

Các ông cũng nên biết, Tôi nói Tứ Thời của nguồn mê, lý sự Giải Nghiệp, mới thi hành phần nhất mà đã kết quả đáng kể là: MÌNH TỰ NÂNG LẤY MÌNH, PHƯỚC BÁO NHÂN THIÊN, hưởng các Cõi Trời. Nếu Bậc tu Nhất Tâm Thật Hành, Thật Tu trong Thời Hai thì có lợi vô kể, một là đắc quả A La Hán, hai là Bồ Tát Hạnh tu rốt ráo Tứ Thời thành Phật. Đây chính lời tuyên rõ giữa thời Hạ Lai chỉ Đạo, các ông nên nghe rõ Thời Hai Tôi nói.

Ngài dạy tiếp:

THỜI HAI, có hai lối Tu, hai bậc Tu. Một là Bậc NHIẾP THÂU THỨC, hai là Bậc KHÔNG NHIẾP THÂU THỨC.

● THẾ NÀO LÀ BẬC TU NHIẾP THÂU THỨC?

Bậc tu nhận thấy Thức thường di chuyển, tư tưởng động vọng quá nhiều mà trái lại sự mong mỏi của bậc tu đến Thanh Tịnh, vì lẽ ấy nên Nhiếp Thâu bằng cách kềm chế động vọng, huân tập Tịnh Tâm, lìa bỏ Nghiệp Thức, Ý Thức dung dưỡng Thần Thức, gọi là Tu Tịnh, chủ quán Định Thần Tưởng Thức, sau khi luyện Thần, ép Thức, đắc quả A La Hán là bậc Nhất trong lối tu Nhiếp Thâu Thức này. Ngoài ra thiếu công năng, được thành Tiên Thần. Đó là một lối giải Nguồn Mê thời Hai Thu Nhiếp, lại dùng Tư Duy Thức Tịnh thành tựu vậy.

● THẾ NÀO LÀ BẬC TU KHÔNG NHIẾP THÂU THỨC?

Bậc Tu Hành Không Nhiếp Thâu vẫn nhận thấy Thức thường di chuyển Tư Tưởng động vọng, Tịnh Bất Tịnh trăm phương vạn Thức không đáng sợ, bậc ấy không Nhiếp Thâu Thức, vẫn nương theo Thức di chuyển, cốt yếu khi nghi chấp để phá chấp đưa về sự rõ biết Nghiệp Căn Chủng Tánh các Pháp di chuyển Thần Thức Ý Thức, gọi là trụ vào Thức mà không trụ Thọ Chấp. Phật thường căn dặn Bồ Tát TRỤ MÀ KHÔNG TRỤ cũng thế.


– Các ông nên nhớ, bậc tu biết giải Nguồn mê của Thức, chính là bậc biết nương theo Thức, cốt soi biết rốt ráo mạch lạc Bổn Lai của Thức, chuyên tu đoạt đến Tự Tánh Tỏ Tánh, chớ chẳng phải nương theo Thức mà an trụ thọ chấp nơi Thức. Nếu Thọ Chấp thì đương nhiên bị chứng tu của mình chỉ tu đến đó mà thôi. Nên Tôi thường dặn: NGHI CHẤP ĐỂ PHÁ CHẤP chính là tiến bộ chớ chẳng phải Nghi chấp để chấp lấy Nghi. Cũng như nương theo Vô Ngã tìm Chân Ngã cũng thế.

Đối với Thức nó chỉ có một ở trong tứ thời Nguồn Mê, nhưng linh động trên dưới, ngoài trong trở thành thanh thô, rộng hẹp, nặng nhẹ, phân tán. Do đó, nó phải làm ba lối suy tưởng khác nhau, để tiêu biểu cho sự tu chứng khác biệt, từ Phàm Phu đến Trí Thức qua Đại Thức Tiên Thần. Thế nào là ba lối? Lối thứ nhất Thần Thức, lối thứ hai Ý Thức, lối thứ ba Nghiệp Thức. Lối Thần Thức suy tưởng thanh thoát, tìm hiểu rỗng rang đặng thoát cao siêu soi khắp vũ trụ Nhân sinh, Tiên Thần, Tam Giới. Nếu là bậc tu Thiền, thời Thần Thức di chuyển cùng khắp mười phương, qua từng cảnh giới để cốt Tỏ Ngộ. Thần Thức chính là một Nguồn Mê, dễ dàng đưa cho bậc tu hành lầm tưởng mà Thọ Chấp, ngỡ mình thành Phật, thành Tiên cao cống Tự Ngã. Do lẽ ấy nên Phật căn dặn: Nếu chấp nhận mình Sở Đắc, thì chẳng Đắc. Vì sao Vì Sở Đắc Định Tưởng đương nhiên bị lầm từ Thần Thức trở thành Nghiệp Thức chấp trụ. Các ông thấy Ngộ là yếu tố nguy hại của sự lầm nhận chưa?

Chúng tôi đồng thưa:

– Kính bạch ĐỨC LONG HOA TĂNG CHỦ, thật nguy hại, nếu trong thời chuyển Thức, chẳng có bậc Chỉ Đạo thì chúng con rất dễ lầm nhận.

ĐỨC LONG HOA TĂNG CHỦ gật đầu dạy tiếp:

Nói về Thần Thức, nó có Bổn Tánh rỗng rang lung lạc, tùy thuận theo ưa thích, nó liền đưa đến Suy Tưởng như ý nguyện. Nó lại di chuyển đồng ứng làm cho bậc tu thích thú vui vẻ hỷ lạc, lầm nhận, vì Bổn Tánh nó như vậy, nên Bồ Tát thường dùng Thần Thức làm nơi an vui trong chốc lát Đạo Tràng, Bồ Tát không Thọ Chấp.

Bậc Thiền Tọa gặp lúc Thần Thức dồi dào thường khi xuất thần đi vào các cảnh Giới du hành. Lối xuất thần này có hai lối khác nhau. Thế nào là khác nhau? Bậc nương theo Thức lúc xuất thần vào cảnh giới biết đó chính là Nguồn Mê của diễn cảnh, nên không cố định chấp trụ để thụ thai vướng vào Nghiệp Thức Cảnh Giới. Còn bậc tu Nhiếp Thâu Thức thường dung dưỡng Thần Thức, lúc xuất thần, liền huân tập nhiếp thâu, để thụ thai nơi Định Tưởng mà chấp trụ, tu đến thành tựu liền bị an trụ.

Các ông nên nhớ kỹ, Thần Thức nếu nương theo để tỏ ngộ Sở Đắc Pháp Thân, do lẽ ấy Bồ Tát tu Pháp Môn Vô Ngã đến nơi Sở Chứng Pháp Thân thật yếu tố quan trọng, bằng Sở Chấp, sở trụ liền bị Tu Chứng đến mức trụ mà thôi, theo như lời Tôi đã nói trên.

Còn về phần Ý Thức, Ý Thức Bổn Lai của Ý Thức năng phân, nếu chấp thì bị biệt, lại năng tách, nếu thụ thì Bị Biết nó đo lường tỉ mỉ từng môn, từng tướng, từng hạt cát đến vũ trụ không thiếu sót. Bậc tu biết nó như thế, phải nương theo nó lập Đạo Hạnh, xem xét tỉ mỉ thật biết, nó chính là một cơ bản Tướng Phần Hạnh Nguyện thành tựu SẮC THÂN TƯỚNG PHẬT Tịnh Độ Niết Bàn, trang nghiêm cõi Phật, không thiếu sót Cảnh Giới, từ Chư Thiên an hưởng hoan lạc, từ phàm phu tu cầu Phước Báo giàu sang, cái giá trị kiểm kê của Ý Thức đối với bậc Giác ngộ nó như vậy, bậc nương theo để thành tựu lấy nó. Bằng chưa biết dụng nó làm một quan điểm duy nhất để tu, như nghiên cứu từng văn tự, ép xác, Đạo Hạnh cố định, tỉ mỉ thọ chấp thật khó tu. Đối với Ý Thức mang nặng thì phàm phu, nhỏ nhen eo hẹp mà bỏ nó ra thì Phi Đạo, buông lung Tà Kiến, vì sự hệ trọng và ích lợi của nó như thế nên Phật căn dặn ĐỨC TRÍ TƯƠNG SONG. Vì sao? Vì Ý Thức tạo Đức, Thần Thức phát Hụê. Ý Thức là Pháp ĐỊNH, Thần Thức là Pháp Tuệ, Ý Thức ỨNG THÂN, Thần Thức PHÁP THÂN, các ông nên nhớ kỹ.

Ngài dạy đến đây, hớp một chung trà của Tín Chúng vừa dâng. Ngài nói tiếp:

Còn đối với Nghiệp Thức, là một Nguồn Mê thọ chấp dừng trụ, Nghiệp Thức cũng gọi là chấp pháp, nếu một bên tu Đạo Hạnh hay một bên tu Trí Tuệ phá chấp để mà chấp, hai bên vẫn nằm nơi Nghiệp Thức, và Tọa Thiền xuất Định để an trụ nơi Thiền Định, vẫn là Nghiệp Thức. Nói ra đây để các ông nhận lãnh hiểu biết làm gương đo lường soi biết chớ không thể diễn giải cho hết Nghiệp Thức trong giai đoạn chấp thủ.

Các ông nên thịnh trọng nhớ kỹ thời Giáo Ngôn này, đồng lưu ý Chú niệm TỨ THỜI NGUỒN MÊ, nó quan hệ nhất là Thời Hai về Thức, làm cho các bậc tu lẫn lộn, tự sanh hồ nghi bất tín, trước Thần Thức buông lung, Ý Thức phân biệt hai đường một lối nan giải, phải bị Nghiệp Thức chấp thủ mà sanh lòng ngạo mạn, Tâm sanh khinh mạn Chân truyền Bảo Pháp cho rằng Chân LÝ NÓ CŨNG THIỆT MÀ NÓ CŨNG GIẢ. Do đó, lúc tu sanh tâm bất tín tự hào, trở thành bừa bãi, tăng thượng đối với Bậc Chỉ Đạo mất tôn kính. Chính chẳng phải do các ông, do tu chưa chu đáo, giai đoạn Thức nguồn mê chưa hiểu biết tí nào nên Thức chuyển đảo điên, lầm ngỡ rằng mình nhận đúng Chánh Đạo.

Đối với giai đoạn Thời Hai Nguồn Mê thuộc về Thức, nó có lợi cho bậc nương theo Vô Ngã để rốt ráo nguồn sanh tử, tận tận Chủng Tánh Khởi Sanh, thật biết Pháp Giới Thọ Chấp, tỏ rõ Tam Thế Như Lai, Cung kính nghiêng mình Hạnh Nguyện, tránh né thọ chấp Tiên Thần, nó chẳng khác NGỌN ĐUỐC SÁNG SOI, NẾU VÔ TÌNH THỌ CHẤP MỪNG RỠ NÉM ĐUỐC BỊ CHÁY RỪNG, TẮT ĐUỐC TẠO VÔ MINH, THÌ PHẢI CHỊU CHÁY, CHỊU KẸT TRONG HANG SÂU RỪNG THẲM VẬY.

Khi bậc tu đi qua hai giai đoạn Giải Nguồn Mê NGHIỆP và THỨC, thì bắt đầu Thanh Tịnh tỏ ngộ, Tự Tại Vô Ngại dung thông, biết lượng theo thời nghi mà giải nói, biết từng khởi sanh của kẻ tu để mà chỉ bày, trên cung kính Chí Tôn, dưới kiểm soi giúp đỡ, không còn lề lối ngạo mạn bừa bãi, đem thời pháp diễn giải đúng chỗ phá mê lầm, chẳng tự ngã khoe khoang, thường xuất định giao du các cõi, lúc trả về chẳng vướng mắc vương mang. Lúc bấy giờ mới xét soi Tự Tánh để Hành Thâm Bát Nhã soi từng bậc, từng Cảnh Giới, từng Tam Thiên, từng lý sự di chuyển kết hợp diễn hóa tạo thành Cảnh Giới, tạo thành Quốc Độ Tịnh Độ muôn phương, Bậc này biết tỏ rõ, biết tỉ mỉ Nghiệp Sanh, Nghiệp Khởi, Nghiệp Trụ, Nghiệp Chấp, Thức Chuyển, Thức Xuất, Thức Sanh, Thức Báo, tự tại ra vào Viên Giác như kẻ nguyện trú Tam Bảo để Thề Nguyện Học.


Khi trưởng thành trọn vẹn, giải trọn vẹn Nguồn Mê về Tánh trong Thời Ba thì đương nhiên Tự Tánh Phổ Chiếu Sở Đắc các Pháp Thần Thông Tam Muội, như Du Hí Thần Thông Tam Muội, Hiện Nhất Thiết Sắc Thân Tam Muội, Chánh Định Tam Muội cùng các pháp Thần Thông Tam Muội khác vô kể, vô kể. Vì sao? –Vì Bổn Tánh Tự Tại Vô Ngại Đại Bi của Bồ Tát Hành Dụng, do lẽ ấy Phật nói: Con mắt Phật không thể nào soi khắp Hành Dụng của các Chư Bồ Tát đặng nên không thể diễn nói hết trong Thời Giáo Ngôn này.

Lúc bấy giờ Bồ Tát trưởng thành Đại Bồ Tát thường dùng THƯỜNG TỊCH QUANG để cung kính Như Lai, thường dùng Diệu Âm Quang để Đảnh lễ Chư Phật, thường dùng KIM SẮC QUANG đặng trang chỉnh Quốc Độ, thường dùng DIỆU SANH QUANG cứu độ Chúng Sanh, làm cho tất cả Thường An Thường lạc. Đó chính là Bổn Nguyện Tự Tánh.

Đến giai đoạn Thời Tư tức là Tứ Thời Nguồn Mê, giai đoạn này thật là giai đoạn quá kể, nhưng vì mở màn để giải Nguồn Mê nên Tôi diễn nói để các ông tự liệu từ đời này làm một Chỉ Đạo Chân Tâm để mà tu cho khỏi lạc, làm cho Chánh Pháp trường cửu chẳng suy đồi.

ĐỨC LONG HOA TĂNG CHỦ Ngài dạy đến đây bảo Tứ Chúng đảnh lễ nơi Chánh Điện đâu đó xong, ngồi lại một bên. Ngài dạy tiếp:

Khi Ba Thời đã hoàn tất Nguồn Mê, đến Thời Thứ Tư thuộc về Tâm, bước qua giai đoạn TÂM thì CHÂN TÂM CHÁNH GIÁC Thị Hiện Viên Tịch, Viên Dung. Chỉ mỗi một gật đầu chấp thuận thì thay đổi Tam Thiên ô trược, phiền não trược, Chúng sanh trược thảy đều trở thành Tịnh Độ trang nghiêm. Một lời nói, một nụ cười, Chân Phật Tử thọ lãnh thì liền Tri Kiến Giải Thoát, Tự Tại Vô Ngại muôn phương. Mỗi một khơi móng tay, mỗi một lần xét đến, thì dù cho Chân Phật Tử bị Ma Ba Tuần nhiễm hại cũng phải rời rã tay chân, không còn quấy nhiễu. Thật quá kể quá kể, bậc Tứ Thời rốt ráo CHÂN TÂM CHÁNH GIÁC VIÊN MINH, không thể nào tán thán hết. Chỉ có Công Đức phụng hành, TIN VÂNG trọn là Cúng Dường Bảo Phẩm thôi.

Khi ghi chép xong, chúng tôi không biết nói gì hơn trong thời Giáo Ngôn này để tỏ Chân thành xưng tán ĐỨC LONG HOA TĂNG CHỦ cho vừa, không ai bảo ai đồng quỳ trước Ngài Chiêm ngưỡng lễ bái thưa thỉnh:

– Kính bạch ĐỨC LONG HOA TĂNG CHỦ, Ngài đã vì lòng thương chúng con từ đời này đến đời sau làm một CẨM NANG CHỈ ĐẠO CHÂN TÔN để tu. Vậy chúng con xin phụng hành trước Ngài để phụng thỉnh từ Chân Tâm Chí Thành của các con lưu truyền đến Chân Tâm Chí Thành của các bậc khác gìn giữ phụng hành bất diệt.

Chúng con xin Ngài dủ lòng thương cho chúng con được tỏ rõ Thời Pháp này là Thời Hiệu chi để cho tất cả phụng trì.

ĐỨC LONG HOA TĂNG CHỦ nói:

– Thời Giáo Ngôn này gọi là Thời CẨM NANG CHỈ ĐẠO CHÂN TÔN. Nói lên cái Mê nó không gốc.

Chúng tôi Đảnh Lễ Phụng Hành.

LONG HOA HỘI THƯỢNG

Chân Phật Tử: Võ Văn Khoa
Pháp Danh: Tôn Giả Pháp Khả
“Phụng ghi để phổ truyền”
Ngày 24 tháng 7 năm Giáp Dần

22. ĐẠO PHẬT BẢO PHÁP BẤT DIỆT

Tôi được may mắn về Trung Ương Hội Thượng thật sớm lúc 7 giờ, ngày mùng 9 tháng 7 năm Giáp dần, tức là ngày 26 tháng 8 năm l974. Tôi nhẹ bước lên cầu thang Tịnh Thất của ĐỨC LONG HOA TĂNG CHỦ, tôi nhận thấy Ngài đang tĩnh tọa Chánh Định, Tôi rụt rè sắp bước xuống cầu thang, cũng may Ngài vừa xả Định, gọi tôi bảo lấy bút giấy, Ngài đọc tôi chép bài thi như sau:

Khá khen Vạn Pháp diễn tuồng,
Dù lời Kinh Điển vẫn luồng không gian.
Thế rồi cũng một thời gian,
Nương nhờ Kinh Điển mở màng vô minh.
Mới hay Diệu Pháp lộ trình,
Của Như Lai dụng không hình Giác Nguyên.

Tôi chép xong, Ngài bảo tôi ghi thời Giáo Ngôn để giải ý nghĩa bài thi trên, Ngài dạy:

Này ông Pháp Tràng, Đạo Phật chính là một mối đạo cao quý Bảo Pháp bất diệt. Vì sao? Vì Đạo Phật đã đem lại cho nhân loại sự NGHE-THẤY-BIẾT viên minh, Tri-Kiến Giải-Thoát. Do bởi Nhân Loại có cặp mắt nơi cái Thấy Dị Phân động vọng Bất Tịnh, mà Đạo Phật phải đem lại cho nhân loại có đôi mắt NHÃN TỊNH NHẤT TƯỚNG đến NHƯ TƯỚNG. Do vì nhân loại có đôi tai chướng ngại biệt phân ngăn cách, mà Đạo Phật đem đến cho nhân loại có đôi tai THƯỜNG LẠC VIÊN DUNG THANH TỊNH. Do nhân loại có cái biết để bị biết giới hạn diệt sanh, mà Đạo Phật phải dạy dỗ đem lại cho nhân loại trọn biết chung cùng bao dung trùm khắp Bất diệt.

– Ông nghĩ xem, như thế Đạo Phật có sẵn nền tảng cao quý bất diệt chăng?

Tôi liền thưa thỉnh:

– ĐỨC LONG HOA TĂNG CHỦ thật cao quý bất diệt khó nghĩ bàn.

Ngài dạy tiếp:

– Do nơi cao quý Diệu Âm bất diệt ấy mà bậc tu hành thọ lãnh được Bảo Pháp rất khó. Bậc thọ lãnh phải có công năng tu tập, nhờ sự tu tập đầy đủ công năng mới lãnh hội đặng lời Bảo Pháp, nhược bằng chẳng như vậy thời khó lãnh, đó chính là một tình trạng chung giữa thời nào cũng phải như thế, chẳng phải thời trước dễ dàng, thời này khó khăn lãnh hội theo sự lầm tưởng sai biệt đâu.

Đương thời ĐỨC THẾ TÔN, Ngài có 1200 vị Chân Tử, nhưng sự lãnh hội lời chỉ dạy không hiểu đồng, chia ra nhiều bậc khác nhau. Nói về Bồ Tát hoặc bậc khá nhất trong Giáo Hội Linh Sơn thì chẳng có bậc nào thọ lãnh Bảo Pháp rốt ráo như Ngài, duy chỉ Thọ Giáo, Lãnh Giáo cùng nhận lãnh Bảo Pháp trên dưới 10 vị thì ông đủ biết sự tu tập khó khăn, sự lãnh hội Bảo Pháp càng khó khăn hơn nữa. Lúc bấy giờ, giữa thời ấy, ĐỨC THẾ TÔN thường khuyên các Chân Tử nên Thật Hành Hạnh Nguyện, Thật tu Bát Nhã Ba la Mật Đa đến Thật Chứng. Ngài lại củng cố nghiêm luật, thành tựu Đạo Tràng như vậy, nhưng nào đâu tất cả gần Phật mà toàn diện 1200 vị có được thành Phật đâu? Đối với Đức Bổn Sư giảng dạy chẳng biết bao nhiêu Bảo Pháp tuyệt đỉnh mà các Chân Tử chưa trọn lãnh, thì những lời ấy đâu có mất, nó đi vào không gian đến thời gian các Chân tử gia công tu tập liền Trực Giác phơi bày. Nhờ có như thế sau này mới kết nạp trở thành Tam Tạng Kinh Điển đến ngày nay.

Ông Pháp Tràng, lời Tôi nói trên để chỉ Đại cương Bảo Pháp một thời Đức Phật, sau này các Chư Tổ thừa kế nhắc nhở không ngoài lời trên của Đức Phật. Chư Tổ có trách nhiệm thừa kế làm cho Giác Ngộ toàn diện nhân loại chẳng còn sót một ai mà chưa Giác. Cứ mỗi thời thì có mỗi bậc hiện thân. Bậc ấy tùy theo thời mà chỉ đạo, bậc ấy tùy theo căn cơ sở tri của bậc tu hành mà dìu dắt, dùng đủ phương tiệïn cứu cánh. Nhưng ngặt một nỗi, bậc tu khó nghe, khó hiểu, khó tin, thường chấp, do đó mà bê trễ trên con đường Giải Thoát; đến chừng xong cuộc, Vị Tổ nhập Niết Bàn thì lời dạy chưa lãnh hội kia nó cũng phải từ không gian đến thời gian để các bậc tu gia công tu tập, đầy đủ công năng liền Trực Giác mới hay rằng chính mình đã gặp Phật, hoặc Bồ Tát thì muôn sự cũng đã an bài.

Ông cũng nên biết đương thời này chính là thời Hạ Lai. Vì sao gọi là thời Hạ Lai? Vì từ thời Thượng Kiếp qua Trung Kiếp đến Hạ Kiếp, do đó nên Hành dụng Như Lai tận độ gọi là Hạ Lai, giữa thời Hạ Lai chính là thời Tận Độ, vì nhân loại nhiều Tự Ngã, lắm lý chướng sự chướng, do đó khó tu. Hai nữa, cầu Đạo Vô Thượng vướng nơi ảo tưởng nhiều, Tham vọng lắm, Nương tựa căn, Lợi dụng căn, Háo danh căn để cầu đạo, thật rất hiếm bậc Thiết Tha Tâm, Thành Thật Tâm, Thù thắng tâm nên chi sự cầu đạo kia mới vừa hiểu đôi chút đã ngộ nhận mình biết, vừa biết đã chấp nhận mình Giác, tu chưa trọn Tri Kiến đã vội thọ chấp Sở Đắc Chánh Giác mà an trụ, dù vô tình lầm lẫn hoặc cố ý chấp mê Thọ Ngã chăng cũng vẫn đánh giá Bảo Pháp Chí Tôn Chân Truyền vào nơi lạc lõng gọi là Mạt Pháp.

Nói đến thời này hay thời trước, nó không khác mấy, vì sao? Vì biển cả kia duy chỉ có bấy nhiêu nước biển. Nhưng trước thì biển nó IM, thời nay thì biển ĐỘNG, nổi lên từng sóng cồn diễn cảnh. Còn đối với bậc tu hành khi chưa tỏ biết thì nó phải khác xa trăm nghìn vạn cách giữa thời này và thời xưa bởi Vạn Pháp cuồng quay Như Lai hành dụng Nghiệp Thức Chúng sanh tạo thành thời thế vọng loạn điên đảo, nên Phật nói:

TÂM BÌNH TẤT CẢ BÌNH.
TÂM LOẠN, TÂM NGHI, TÂM ĐẢO LIỀN BỊ LOẠN, BỊ NGHI, BỊ ĐẢO là vậy.

Này ông Pháp Tràng, Tôi biết giữa thời Hạ Lai vọng động như thế, Tôi thường tâm tình bằng thi thơ, Tôi biết Mạt Pháp Tận Độ nó phải như vậy, Tôi thức tỉnh bằng Giáo Ngôn, đối với Tôi, Tôi biết Bảo Pháp phải tùy theo trình độ chuyển trao cho bậc tu thọ lãnh. Nhưng Tôi thật biết thời này rất nhiều bậc khát khao Bảo Truyền Chân Pháp, lắm bậc Đại Hùng Đại Lực để cầu Đạo Vô Thượng Chân Truyền, nên hôm nay Tôi nói thời Pháp Bất Diệt Bảo Truyền để gởi đến bậc tu hành, chúc cầu Tròn Giác.

Đối với các ông, sự tu hành duy nhất bền chí, đầy đủ kiên dũng trước sóng cồn Thân Tâm, thường xem Giáo Ngôn, đọc Kinh Điển. Tất cả việc ác nhỏ đều bỏ, việc Thiện nhỏ phải làm, miễn sao Thiết Tha Tâm cầu đạo, Thành thật Tâm tu hành, trăm Kinh vạn Điển thảy đều có thế.

Tôi ghi chép xong thời Giáo Ngôn của ĐỨC LONG HOA TĂNG CHỦ, tôi nhận thấy tình Ngài bao la rộng lớn, đã khai thị cho thời Hạ Pháp biết tỏ rõ rằng thời nào cũng thế, duy chỉ nơi mình thiếu kém thân tâm lầm theo vọng đảo mà bê trễ đường tu, chỉ có mình thiếu sót công năng nên chưa Thọ Lãnh Bảo Pháp, đâm sinh ra nghi chấp. Nếu hiện tại không tu thì chẳng bao giờ đến, bằng hiện tại chẳng Giác thì chẳng bao giờ Tròn Giác Viên Minh.

Thời Giáo Ngôn thật quý giá vô lượng, nó làm kim chỉ nam dẫn đường chỉ lối cho các thời Giáo Ngôn trước đây mà Ngài đã từ bi khai thị. Tôi cùng các anh em giữa thời Hạ Pháp này được Đại Duyên Lành gần bên ĐỨC LONG HOA TĂNG CHỦ đã nhận chân được một phần giá trị vô song của thời Pháp, nên cung kính nguyện cầu Chư Long Thần Hộ Pháp, Chư Bồ Tát Đồng Thanh Tương Ứng Nguyện, đồng hộ trì giúp đỡ cho tất cả Tứ Chúng cùng nhân sinh trong vũ trụ thời này đồng thời sau thọ lãnh Bảo Pháp đặng vào biển Đại Giác.

LONG HOA HỘI THƯỢNG

Chân Phật Tử: Hoàng Ngọc Sơn
Pháp Danh: Pháp Tràng
“Phụng ghi chép Đức Tăng Chủ điểm sửa để cho phổ truyền”
Ngày 09 tháng 7 năm Giáp Dần

21. QUYỀN HẠN QUYỀN LỢI CỦA BẬC TU

Lúc bấy giờ, vào khoảng 10 giờ 30 ngày mồng một tháng 7 năm Giáp Dần, tức ngày 18-8-74 nhằm hôm chủ nhật. Tại Trung ương, Tín Chúng cùng hàng Giáo Phẩm vắng mặt, vì bận đi hành Đạo hoặc hướng dẫn sinh hoạt các Pháp Bảo trong Tỉnh Thị Hội.

Tôi về đến Trung ương Hội Thượng, vấn an ĐỨC LONG HOA TĂNG CHỦ theo thường lệ, sự hiện diện có bà Pháp Tùng đang thắp hương lễ Phật. Khi ấy ĐỨC LONG HOA TĂNG CHỦ cũng vừa nhập Chánh Định xong, Ngài từ Tịnh Thất bước ra Chánh Điện, an tọa trên chiếc chõng, chúng tôi lễ bái xong đồng ngồi lại một bên. Ngài liền dạy:

Này ông Pháp Khả, đáng lẽ hôm nay, giờ phút này, Tôi ngồi tại Tỉnh Thị Hội Bình Định Qui Nhơn để nói thời Pháp mà Tôi sắp nói với ông. Vậy tiện đây Tôi nói ra ông ghi chép đầy đủ gởi đến các Pháp Bảo để Tứ Chúng nương theo lời của Tôi mà vững tâm tu tập, nếu Tứ Chúng có một trình độ thường tiếp nhận Giáo Ngôn của Tôi mà thật biết được mỗi thời Giáo Ngôn là mỗi lần Tôi đã đến gần Tứ Chúng thì sự tu hành tiến bộ khó nghĩ bàn.

ĐỨC LONG HOA TĂNG CHỦ dạy xong Ngài ngồi trầm ngâm giây lát, Ngài dạy tiếp:

– Ông cũng nên biết, nói về Quyền Hạn và Quyền Lợi của bậc tu hành, Tôi vẫn thường nói nhưng rất hiếm hoi bậc tu hành hiểu nổi. Vì sao? Vì vô minh chẳng cho bậc tu nhận Chân được nó, nếu nhận được đương nhiên biết được giá trị vô kể, chẳng còn mến tiếc chi thế nhân liền đánh đổi lề lối sống nhỏ nhen thèm khát dục vọng đặng tu đến Tri Kiến Giải Thoát.

Đối với riêng tôi, tôi chẳng bao giờ phiền trách các bậc tu vì chưa nhận được, về bổn phận của Tôi, Tôi phải làm thế nào cho Tứ Chúng tín tâm nhận được Chân giá trị của nó. Khi nhận được giá trị Quyền Hạn đồng Quyền Lợi thì bậc tu hành, tránh nổi Nghiệp Thức thờ ơ hoặc lững lờ, mộng đảo tu đến đích Giải Thoát hoàn toàn.

● THẾ NÀO LÀ QUYỀN HẠN, QUYỀN LỢI CỦA BẬC TU?

Bậc tu duy nhất có một Quyền Hạn đáng kể là: Tự mình tạo công năng tu đến Tri Kiến Giải Thoát, tự nơi mình tìm Chơn Tánh để tu Tỏ Tánh, tự chính mình có Trí Tuệ quan sát phá chấp, tự mình nâng cao Đạo Hạnh Đức Trí, cũng tự mình nâng mình, Đức tánh bằng Chư Thiên, Đức Tánh ngang Chư Tiên, Chư Thần, Chư Thánh và Chư Bồ Tát tu rốt ráo thành Phật. Bậc tu có Quyền Hạn rộng rãi, có Quyền Hạn tu Phật thành Phật, tu Tiên thành Tiên, tu Thần, Thánh thảy đều thành như sở nguyện. Bậc tu rất cần biết Quyền Hạn nơi mình thời phải nung đúc lấy quả vị, khi nung đúc quả vị cấu tạo công năng đến nơi Sở Đắc thì quyền lợi kia cũng chính mình trọn hưởng.

Ông cũng nên biết, Quyền Lợi hưởng được nó phải có Quyền Hạn Tha Thiết Tâm, Thành Thật Tâm đòi hỏi Chân Thiện hoàn lai. Cũng như bậc tu có quyền hạn tu cầu đến làm chủ vũ trụ, làm chủ Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới, nhưng phải thật tỏ biết Quyền Hạn nơi mình mới tu chứng rốt ráo, chừng ấy Quyền Lợi trọn hưởng trùm khắp Tam Thiên Thế Giới. Ông nghĩ xem Quyền Hạn đòi hỏi, Quyền lợi được hưởng của bậc tu có rộng rãi to lớn chăng?

Lúc bấy giờ tôi thưa thỉnh: – Bạch ĐỨC LONG HOA TĂNG CHỦ, Quyền Hạn rộng rãi, Quyền Lợi thật to lớn khó nghĩ bàn. Ngài gật đầu nói tiếp:

Quyền Lợi của bậc tu hành to trùm khắp như thế nên Phật nói -NƠI BIỂN CẢ NÓ CHẲNG CHỊU NHẬN, LẠI NHẬN LẤY BỌT NƯỚC ĐỂ TRÔI DẠT NƠI SANH TỬ.

ĐỨC LONG HOA TĂNG CHỦ nói xong đến đây, Ngài hớp một hơi trà nghỉ ngơi chốc lát và dạy tiếp:

– Này ông Pháp Khả, Quyền Lợi Quyền Hạn Tôi đã nói trên thật quá ư khó bàn, nhưng nào bậc tu hành có chịu đòi hỏi Tự Giác, lại thường chịu van xin, cầu vái, lạy lục ban cho những tấm bé nhỏ nhặt để làm chút ít Phước điền ảo tưởng, trong ảo tượng lầm lẫn đó chính là một điểm chẳng có lợi, lại thêm vào điên đảo cuồng quay, mất cả thời gian của bậc Chỉ Đạo phải phương tiện giảng nói. Vì như thế nên giữa thời ĐỨC THẾ TÔN phải tùy thuận lòng mong cầu tham muốn vọng tưởng điên đảo mà phải giảng nói trên 39 năm (sau 39 năm, ĐỨC THẾ TÔN mới thật giảng nói về Quyền Hạn và Quyền Lợi của bậc tu như thời Giáo Ngôn này, nên Ngài nói: TA LÀ PHẬT ĐÃ THÀNH, CÁC NGƯƠI LÀ PHẬT SẼ THÀNH). Hôm nay Tôi nói rõ bổn phận của bậc tu có Quyền Hạn Tỏ Tánh phá lầm mê, tự giải quyết sanh tử, đó chính là lời nói thiệt, bằng chẳng nghe được lời này thời các ông phải Tâm Niệm và Đọc Tụng để ghi nhớ mà tu.

– Còn đối với bậc Chỉ Đạo có Quyền Hạn gì? Bậc Chỉ Đạo có bổn phận Quyền Hạn: Khai thông lầm chấp đưa tất cả đến giải thoát, dạy Đạo Hạnh Đức Trí viên minh. Chỉ các ông Trí tuệ căn bản, vạch lối biết Quyền Hạn Quyền Lợi của các ông, làm cho trọn hưởng Chánh Báo của các ông ngàn xưa thất lạc Chân Thiện Mỹ hoàn lai. Chớ đối với Bậc Chỉ Đạo không có Quyền Hạn bỏ các ông vào nơi Địa Ngục, Súc Sanh, Ngạ Quỷ. Chỉ các ông có quyền bỏ các ông vào Ngạ Qủy, Súc Sanh hay Địa Ngục thôi.

Từ đời này đến đời sau, nên nghe theo lời minh huấn trên chính là lời kêu gọi Chánh Giác mà Tôi đã nói ra, nếu có bậc Chỉ Đạo nào dùng quá luật Quyền Hạn Chỉ Đạo của bậc ấy, thường đe dọa Thần Quyền bắt bỏ sư ếm, hoặc lập bàn trù hay đặt bàn ếm thảy đều là Ngoại Đạo Tà Thuyết, các ông nên ghi nhớ.

Sau khi được nghe ĐỨC LONG HOA TĂNG CHỦ Giáo Ngôn khai thị, tôi mới nhận rõ được sự tu hành Tự Giác, chính mình phải tự tạo Đức Trí, vì chính nơi mình đã có sẵn một Quyền Hạn đòi hỏi Thiện Chân đến Quyền Lợi Chánh Báo trọn hưởng bất diệt. Thật là một thời Giáo Ngôn trực chỉ làm cho tôi chẳng còn lấy một ảo tưởng cầu mong, mà có thể đưa tôi đến mục đích mong cầu Giải Thoát trong Quyền Hạn của bậc tu hành vậy.

Nay tôi cung kính phụng chép ghi, mong cầu Giáo Ngôn của Minh Sư Bảo Pháp đến tay các ông phổ truyền rộng rãi thức tỉnh vạn phần Tự Giác Giác Tha, chính lời tôi chân thành chúc nguyện.

LONG HOA HỘI THƯỢNG

Chân Phật Tử: Võ Văn Khoa
Pháp Danh: Tôn Giả Pháp Khả
“Phụng ghi để phổ truyền”
Ngày 01 tháng 7 năm Giáp Dần

20. HUẤN TỪ CẦU ĐẠO

Lúc bấy giờ, vào một buổi chiều thứ hai, ngày 29 tháng 7 năm 1974 tức là ngày 11 tháng 6 năm Giáp Dần. Chúng tôi về Trung Ương Hội Thượng vấn an ĐỨC LONG HOA TĂNG CHỦ, vì hay tin Ngài bệnh. Sự hiện diện của chúng tôi gồm có Ông Pháp Như, Bà Pháp Tùng, Ông Pháp Quyên, và một số Tín Chúng. Ngoài ra Ông Tạng Nguyên đang đánh máy bài Giáo Ngôn ở mái nhà sau Chánh Điện.

ĐỨC LONG HOA TĂNG CHỦ nằm trên chiếc chõng vải thường lệ, chúng tôi lễ vấn an xong, đồng yên lặng ngồi lại một bên. Lúc bấy giờ không khí thanh thoát yên tĩnh chẳng còn lấy một khởi. ĐỨC LONG HOA TĂNG CHỦ Ngài mỉm cười, chúng tôi nhận thấy dung nhan Ngài vẫn bình thường tươi đẹp khoan khoái ôn hòa chẳng có chi là đau yếu, thật khó diễn tả thay. Ngài liền bảo tôi rằng: –Ông Pháp Tràng lấy bút để ghi chép HUẤN TỪ GIÁO NGÔN. Ngài dạy:

– Này các ông, khi bậc tu đã Phát Bồ Đề Tâm cầu Đạo, chính là một sự quý báu khó nghĩ bàn, nhưng tại sao lúc tu tập lại suy kém chần chờ, kéo lôi biếng trễ, được mất phân vân, Thọ Lãnh Bảo Pháp chẳng đồng để tu; lại nữa, bậc biết Thọ Lãnh Bảo Pháp nhưng nơi tu chứng khác biệt, thì thử hỏi do bậc Cầu Đạo hay do bậc Chỉ Đạo?

Lúc bấy giờ chúng tôi lặng thinh suy ngẫm chưa kịp trả lời, Ngài dạy tiếp:

– Cầu Đạo nó có hai yếu tố để cho bậc Cầu Đạo thi hành. Thế nào là hai yếu tố?

● Yếu tố thứ nhất: THÀNH THẬT TÂM cầu đạo.

● Yếu tố thứ hai: THIẾT THA TÂM cầu đạo.

Bằng những bậc Cầu Đạo mà thiếu hai yếu tố trên thì đương nhiên THỜ Ơ TÂM, làm thế nào để Cầu Đạo Chánh Giác? Các ông nghĩ xem lời nói trên có đúng với Tinh Thần Cầu Đạo chăng?

Lúc bấy giờ chúng tôi đồng thưa:

– Kính bạch ĐỨC LONG HOA TĂNG CHỦ, thật đúng như thế.

Ngài gật đầu, trầm ngâm chốc lát Ngài dạy tiếp:

– Các ông cũng nên biết: Tôi thường nói, bậc Truyền Đạo không có quyền truyền Bảo Pháp Tối Thượng mà bậc Truyền Đạo chỉ theo nhu cầu THIẾT THA TÂM của kẻ Cầu Đạo mà diễn nói. Các ông càng thành thật, Thiết Tha Tâm bao nhiêu thời bậc Chỉ Đạo mới theo nơi nhu cầu của các ông mà Chỉ Giáo, do lẽ ấy nên khi bước vào ngưỡng cửa nhà Phật để Cầu Đạo, rất cần thiết hai yếu tố trên. Tôi là bậc CHỈ ĐẠO, mong các ông ghi nhớ.

Ngài dạy xong đoạn trên, thời ông Tạng Nguyên vừa ngưng đánh máy bước vào lễ bái ngồi lại một bên. Ngài dạy tiếp:

– Đối với các ông hiện nay, nếu chưa Thành Thật Tâm hoặc chưa biết Thiết Tha Tâm, thì hãy phát nguyện Thành Thật, Thiết Tha Tâm để Cầu Đạo Tối Thượng Bồ Đề. Khi các ông trọn Tín Tâm Cầu Đạo thời trên con đường Tu Tập các ông hãy thi hành Hạnh Nguyện quyết tâm Thật-Hành, Thật-Tu mới mong đến nơi PHẬT CHỨNG. Bằng chưa Thật-Hành, chưa Thật-Tu thì khó đến Thật Chứng. Đó chính là một Huấn Từ mà Chư Bồ Tát vẫn Phụng Hành Tâm Niệm, Chư Phật ban hành để Bồ Tát tu.

● THẾ NÀO LÀ THẬT HÀNH?

Khi các ông Niệm Phật, thời các ông Chí Tâm Thật Hành chuyên cần Niệm Phật, lúc các ông Trường Trai hoặc Kỳ Trai thời các ông phải Tinh Tấn Thật Hành Trường Trai Kỳ Trai. Khi các ông Đạo Đức hỷ xả thì các ông phải Thật Hành Đạo Đức Hỷ Xả. Lúc các ông tu sửa Đố Tật, Bố Thí, Trì Giới, Tinh Tấn, Nhẫn Nhục, Trí Tuệ, hoặc Tu Thiền thời các ông phải Tu Thiền, Sửa Tánh, Bố Thí, Trì Giới, Tinh Tấn, Nhẩn Nhục. Đó chính là yếu điểm cho các ông THẬT HÀNH, bằng chẳng vậy chưa phải Thật Hành để Tu.

● THẾ NÀO LÀ THẬT TU?

Lúc đã Thật Hành Bố Thí, Tinh Tấn, Nhẫn Nhục gặp cảnh trái ngang, chê bai, phiền trách, thời các ông chớ vì trái ngang chê bai phiền trách mà bỏ tu, Đó chính là Thật Tu. Khi các ông Tu Thiền: được, mất đến với các ông trong cơn Thiền, Sanh Tâm biếng trễ mà bỏ Tu, đó chính là Chẳng Thật Tu. Các ông Soi Sáng Trí Tuệ để phá Mê Chấp, lướt qua Nghiệp Chủng, đào sâu nghĩ rộng các Pháp, cốt Tỏ Tánh, đó chính là Thật Tu. Bằng không như thế mà Thọ Chấp An Trụ, đó là Chẳng Thật Tu. Các ông có Thật Hành, Thật Tu, mới Thật Chứng. Tướng Tánh đồng Song mới đoạt đến Thật Giác. Bằng chẳng như thế làm sao đưa các ông THẬT-CHỨNG GIÁC. Các ông nghĩ xem, trong thời GIÁO NGÔN HUẤN TỪ này, tôi đem ra giảng nói cho đầy đủ thì có thể nói một trăm kiếp chưa hết lời. Vậy các ông hãy Tâm Niệm Thật Hành Thật Tu để mà Tu, Thành Thật Tâm, Thiết Tha Tâm để Cầu Đạo Vô Thượng, thì làm gì mà không kết quả hiện tại.

Các ông cũng nên biết: Thời Thượng Pháp, Chí Tôn đến Hạ Lai đương chế, sự hiểu biết Tu Chứng chẳng đồng, bậc dư kẻ thiếu, chỉ vì chênh lệch yếu hèn, bê trễ nơi Thành Thật, Thiết Tha Tâm cùng với Thật Hành, Thật Tu mà phải chịu như thế.

Vậy hôm nay tôi kêu gọi TÂM THỨC của các ông, nên nhận lãnh Thời Giáo Ngôn, phát Đại Nguyện Tâm của các ông để Thọ Trì Thời Pháp Chân Tôn tôi đã nói, để Phụng Trì ghi chép mà Tu.
ĐỨC LONG HOA TĂNG CHỦ Ngài dứt lời.

Chúng tôi lễ bái Thọ Trì, ghi chép. Chúng tôi nhận thấy thời Giáo Ngôn Huấn Từ của ĐỨC LONG HOA TĂNG CHỦ khai nguyên, trực chỉ yếu điểm sai lầm thiếu sót, đó chính là một Pháp Môn Tối Thượng khó nghĩ bàn. Chúng tôi rất cầu mong quý Tín Hữu nhận thức hồi tỉnh để đáp đền công ơn của ĐỨC LONG HOA TĂNG CHỦ đã chỉ dạy chúng ta trong thời Hạ Pháp.

LONG HOA HỘI THƯỢNG

Chân Phật Tử: Hoàng Ngọc Sơn
Pháp Danh: Pháp Tràng
“Phụng ghi để phổ truyền
Ngày 11 tháng 6 năm Giáp Dần