21. CHÁNH BÁO

CHÁNH BÁO duy nhất chỉ có bậc Vô Thượng mới đoạt đến mà thôi, vì sao? Vì chính đó là Báo Thân, cho nên kỳ dư tất cả thảy đều thọ hưởng Phước Báo đến Phước Báo Nhân Thiên là cùng, do đó Chư Bồ Tát chẳng tham cầu Phước Báo Nhân Thiên mới phát Đại Nguyện tu vạn hạnh hành thâm Bát Nhã đặng sung mãn Công Năng Công Đức cúng dường Như Lai Phật thọ lãnh cõi Phật đạt Chánh Báo Vô Thượng.

Từ Tịnh Độ, Quốc Độ, đến các cõi, các Cảnh Giới Tiên Thần nơi Tam Giới, cùng Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới, Rồng Trời Người thảy đều nằm nơi Phước Báo thọ hưởng.

Bậc Vô Thượng Chánh Báo Đại Bát Niết Bàn thật khó nghĩ bàn, khó dùng ngôn ngữ thuyết giải cho hết đặng. Vì sao? Vì Công Năng Công Đức vô lượng vô biên Ba Thân viên mãn hoàn giác Chánh Giác không thiếu sót, nên không lời nào, nơi nào để tán thán cho hết đặng.

Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Ngài đoạt Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, trọn Chánh Báo Đại Bát Niết Bàn. Đối với Ngài, ngài cũng không ngờ, ngài cũng không thể nào so tính đặng Chánh Báo vô tận, Ngài chỉ nói:Thật kỳ diệu! Ngài mới dùng KIM THÂN TƯỚNG PHẬT quan sát, từ vô thủy sơ khởi Công Đức đến thực hành công đức hôm nay, ngài biết tỏ rõ, biết tỉ mỉ tất cả Công Đức Công Năng sung mãn ngày nay mới đoạt đặng Chánh Báo. Ngài liền nói với Tứ Chúng rằng:

“Các Ông nên biết, TA kể từ Vô Thủy trong thời Thượng Kiếp, khi TA mới phát Bồ Đề Tâm tu hành, ta tạo nên một Công Đức, đến nay Ta đoạt Vô Thượng Chánh Báo thì công đức ấy liền Thể Hóa một vị Phật tính như thế đối với Ta có thể kể hết được Công Đức chăng?”

Tứ chúng đồng thưa: “Không thể nào kể nổi.”

Ngài nói: “Thật ra đối với Ta khó nói, khó bàn đồng khó tính đếm cho hết được. Thể Hóa chư Phật, do lẽ ấy nên ta nói: Hằng hà sa số Phật, Vô Lượng Công Đức Phật. Các Ông cũng nên tin lời ta nói chân thật cố gắng tạo Công Đức Cúng Dường Như Lai Phật để thành tựu Chánh Báo như ta vậy.”

So lời Đức Thế Tôn nói trên đủ biết, Chánh Báo Vô Thượng Ba Thân Viên Mãn, nhờ Công Đức Công Năng tu tập trong Hạnh Nguyện. Khi thành tựu Chánh Báo do Công Đức ấy Thể Hóa ra chư Phật hằng hà sa số vô lượng công Đức đều thành Phật, sung mãn mới xưng tán Đại Bát Niết Bàn thì thử hỏi làm sao kể hết.

Còn đối với bậc chưa tu hành, chưa huân tập Thiện Căn đang trong lẽ sống phàm phu tánh, thì chúng sanh tánh hãy còn lung lạc, vì lung lạc chẳng có qui định nên chi chúng sanh tánh mới đồng hóa các hoàn cảnh Thuận Nghịch, tùy theo Tâm Ý mà phiên diễn. Nếu là Thiện hoặc Phước Đức thời hưởng được Thiện cùng Phước Đức. Bằng độc ác tranh giành thời chúng sanh tánh đồng hóa diễn cảnh xấu xa nghèo đói. Đến lúc lâm chung cũng tùy theo Đức Tánh hoặc Ác Tánh mà đưa đi sanh tử nơi cảnh giới của chúng sanh đồng hóa tạo thành. Còn đối với bậc biết tu hành huân tập Thiện Căn đào tạo Công Năng Công Đức, phát Bồ Đề Tâm nguyện liền được Trí Tuệ lên hàng Bồ Tát, từ Sơ Trụ đến Bất Thối tùy theo nơi sở đắc mà Hóa Thể Bồ Tát để hộ trì giúp đỡ Bồ Tát Hành Nguyện rốt ráo. Nếu chưa đặng rốt ráo thời liền hóa thể Tịnh Độ Bồ Tát.

Phật thường nói Tự Tánh sung mãn Công Đức để thọ lãnh cõi Phật, Ngài nói:

“Các Ông cũng nên biết Chánh Báo Vô Thượng chẳng ai ban cho ta, còn Chịu Báo không ai bắt ta phải chịu lấy, duy chỉ có ta tạo thành Chánh Báo, ta tự gây lấy Chịu Báo. Đối với bậc tu cầu Chánh Báo phải là bậc cấu tạo TRÍ ĐỨC song đồng. Ta rất tường tận nghiệp thức mê lầm của chúng sanh đang lâm trong vòng Sanh Diệt, nơi chốn Sanh Diệt ấy nó chỉ phân vân CÒN MẤT CÓ KHÔNG của hai tướng mà trở thành bá thiên vạn tướng, do lẽ đó nên chúng sanh rất khó nghe, khó biết để nhận chân lời ta dạy dỗ, nên thường gây tạo cấu xé hơn là Tín Tâm tạo Phước Thiện. Khi Chúng Sanh tạo được Thiện Căn Phước Báo lần tu đạt đến Chánh Báo huy hoàng, chẳng phải chúng sanh không mong lãnh lấy Bảo Pháp của ta, chỉ tại trót củng cố ấn tượng quan niệm hai tướng Sanh Diệt Còn Mất, thật ra họ hãy đang còn ở nơi Sanh Diệt Còn Mất, do đó họ phải tu trong các phẩm hạnh Công Đức để giải mê lầm nghiệp thức, lúc nhờ công năng giải được phần nào thời liền tỏ ngộ phần ấy, đó chính là dĩ nhiên nó phải như thế.”

Thường lệ nhiều bậc tu hành hay năng chấp cùng sở chấp, chẳng do nơi đâu chỉ do chưa biết, do lòng tham động vọng hãy còn, vì vậy nên Phật Đạo thường nói pháp Vô Ngã để cho bậc tu lìa ngã, khi bậc lìa ngã quá trớn thời lại bị Phi Phi, còn có bậc có đôi chút Trí Tuệ tu theo Lý Trí của mình chẳng thi hành hạnh nguyện công đức, đảm phá Đức Hạnh Đạo Tràng để nung đúc tăng thượng, cho Đức Hạnh Đạo Tràng Hạnh Nguyện đều mê chấp nên thường dùng Lý Trí nơi mình làm thành bờ ngăn cho chính mình, để không Chấp mà vướng chấp Không.

Bậc tu hành có cơ bản, chịu khó học hỏi tu tập lìa sở ngã của lòng tham, lập tinh tiến trên con đường tu, dùng Đạo Hạnh làm cho kẻ quanh mình được kính mến, nương theo Lục Ba La Mật Đa cùng Tứ Nhiếp để thu Nhiếp tỏ thông, xem kinh điển hoặc nghe Giáo Lý phá mê chấp làm mức đo lường nơi Trí Tuệ. Bậc như vậy thường khen kẻ tạo Thiện Căn, lại ít chê bai kẻ làm điều Ác, thường gần kẻ Ác để giúp đỡ thiện căn, thường tỏ tâm thương hại kẻ lầm hơn là phiền trách họ.

Nhờ thế nên Tu Chứng VÔ SANH PHÁP NHẪN, thọ pháp Trực Giác Thực Tướng Vô Tướng, nên biết tỏ rõ phẩm Công Đức Bát Nhã cùng Công Năng Ba La Mật Đa không bao giờ mất mát hao mòn đâu cả, nhờ có các phẩm hạnh công đức trí tuệ nên trọn giác, Đức Trí song đồng Tướng Tánh duy nhất, vì thật biết như vậy nên chi chẳng vì Vô mà biếng trễ nhàm chán. Không vì Thực để tham cầu, duy chỉ Chánh Báo hoàn lai là đủ.

Nói đến Đạo Phật lưu lại của chư TỔ hay đối với Đức Phật trong thời hiện thế rất chăm chú đến Chúng Sanh chẳng khác nào mẹ thương con khờ dại, nên tìm đủ phương tiện giảng nói làm thế nào cho chúng sanh giác ngộ, đó chính là mục đích của Chư Phật và chư Tổ đồng một Bổn Nguyện. Nhưng trái lại đa số có nhiều mong cầu, nhiều tự nguyện hơn là tiêu giảm nghiệp, tự mãn kiêu căng, lười biếng hơn tinh tấn. Đức Thế Tôn ngài thừa biết, Ngài mới nói những TIỀN THÂN của Ngài trong thời hạnh nguyện tu hành, cốt yếu Ngài nói lên để chúng sanh phải tu cầu như thế, phải soi tấm gương của Ngài tu tập trọn Chánh Giác mà thọ lãnh Chánh Báo.

Có một đoạn Ngài đã nói: “Các Ông cũng nên biết: Thời quá khứ ta đã từng cầu đạo Vô Thượng, cùng các thời khác ta đã từng cúng dường Như Lai Phật mười phương, lại cũng đã từng thọ pháp truyền thuyết khắp cõi Ta Bà trên con đường Hạnh Nguyện chẳng thiếu sót. Các Ông lấy cây kim đặt nơi đâu cũng thảy đều có xương ta nơi đó. Ta chung gồm tu nơi vạn hạnh thu nhiếp, vạn pháp duy nhất thành tựu chỉ có ĐỨC TRÍ thôi. Theo nơi kinh DUY MA cũng có nói BỒ TÁT LÃNH LẤY CÕI PHẬT.”

Nói đến sự cầu đạo hiện nay rất nhiều bậc có chí nguyện cầu đạo, nhưng thường tu bị vấp, dù cho bậc tín tâm cách mấy chăng, như bậc y kinh để mà tu vẫn bị vấp, đến bậc soi biết tự tánh tỏ tánh đều bị vấp. Vì sao? Vì chưa biết vội cho mình biết nên thường bị vấp, đó gọi là chưa biết tu. Nếu biết tu thời càng bị vấp bao nhiêu, thì cái vấp để mà tỏ biết đó chính là bậc biết tu. Bậc ấy gọi là Động để Giác vậy.

Bậc tu Phật nương theo các pháp môn Phật dạy để tu cũng là khó. Nhưng khó thứ nhất là bậc đã hiểu biết trong một căn bản nào đó, đến lúc trí tuệ gặp phải pháp song đối như: CÓ và KHÔNG, THỰC hay VÔ thật đáng khó, trên bước đường nầy làm cho bậc tu phải phân vân vì chưa tỏ rõ nên chưa giải đặng sinh nghi ngờ. Nếu biết được khúc quanh của TAM THỪA vào pháp môn Không Hai thì thư thả cứ tu rồi tiến bộ giải quyết. Chớ nên vì CÓ để thọ chấp hoặc bởi VÔ mà an trụ thời chỉ đứng có một bên chẳng vào đặng Nhất Thừa hoàn giác.

Chẳng khác nào đứng trước ngã ba đường, nếu chọn lấy một trong ba đường thì chỉ đặng một mà phải mịt mờ trong hai đường khác. Thế nào gọi là ba đường? Một là CÓ, hai là KHÔNG, ba là Mình soi biết, đó gọi là ba đường.

Nơi ba đường trên bậc tu hành thật biết thế nào mà CÓ, thế nào lại KHÔNG, để Có Không hoàn giác Nhất Thừa. Cũng như thật biết Đức Hạnh giúp cho Chánh Báo, về Trí Tuệ giúp Chánh Giác, nên ĐỨC TRÍ phải đồng song thì Tánh Tướng trọn duy nhất. Nếu dùng Trí Tụệ chẳng dụng Đức Hạnh thời sở đắc Pháp Thân còn Ứng Thân chưa Đắc, khi trí tuệ đắc chân lý chỉ nói năng thuyết giải tỏ tường nhưng chẳng làm thế nào cho tất cả Tứ Chúng khâm mạng để nhiếp thâu Lý Sự song tu. Bằng Đạo Hạnh Đức Hạnh khiêm toàn lại đặng mọi bậc kính nể, nhưng thiếu khuyết đưa cho chúng sanh Tri Kiến Phật? Hai điểm trên rất cần đến tận hưởng Chân Lý Chánh Báo thành tựu Ba Thân Viên Mãn vậy./-

TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN

20. PHI NHÂN DUYÊN

PHI NHÂN DUYÊN là một pháp mà Chư Bồ Tát cùng bậc Chánh Giác đã thấu tỏ. Các bậc ấy từng thâm nhập PHI TỨC và TỨC PHI không lầm lấy một Pháp, nên vô ngại tự tại Thân Tâm Viên Tịch ra vào Viên Giác. Bởi vậy nên tất cả việc làm cùng với cử chỉ đều vì Hạnh Nguyện Độ Sanh.

Lúc vì Bổn Nguyện nên Chư Bồ Tát Chơn Giác vẫn đồng nương theo Nhân Duyên Pháp, lại thường nói pháp Nhân Duyên làm cho chúng sanh không nhàm chán Đạo Tràng mà rời bỏ trên con đường tu Phật. Trong một thời gian đầy sự hiểu biết, tánh tình bình dị, nói năng thuần túy, tâm rỗng rang, lại ý chí kiên dũng đầy đủ Đức Tin con đường Tri Kiến Giải Thoát, trong khi ấy các nghiệp đảo vọng lần lần tiêu giảm, chư Chánh Giác tùy thuận theo đó mà nói pháp Phi Nhân Duyên để chúng sanh tự tỏ phá chấp Nhân Duyên Pháp. Đó chính là một phương tiện làm cho chúng sanh chẳng chấp pháp mà rõ biết sự tu hành là một phương tiện cứu cánh giải thoát, chớ chẳng phải tu để mà mắc trong nghiệp tu.

Do đường lối chỉ bày khéo của bậc Tri Đạo và khéo Thuyết Đạo, nên từ mê lầm tu đến Không lầm, từ chấp pháp Nhân Duyên tu đến Phi Nhân Duyên cũng không, biết thấu Phi Tức liền lạc sự Tức Phi hoàn toàn không tập khởi mà vào Chơn Giác.

Sau đây Phẩm Phương Tiện vì tình thương Duy Nhất vì Hành Nguyện Độ Sanh của Chư Bồ Tát và Chư Phật, phơi bày tất cả sự Phi Tức cùng Tức Phi, Nhân Duyên hay Phi Nhân Duyên trong các pháp, vì sự lầm mê đảo loạn mà tùy thuận nương chìu để diễm nói làm cho chúng sanh tu hành đặng Chơn Giác, chớ thật ra Chư Bồ Tát cùng Chánh Giác chẳng có chi gọi là Pháp Phật. Vì chúng sanh mà có Phật Pháp vậy.

PHẨM PHƯƠNG TIỆN:

Vào thời quá khứ A Tăng Kỳ Kiếp nọ, có Trưởng Giả tên Kiên Đề Ni bị sanh trong một nước, nước ấy Dân Cư đông đảo, nhưng cực khổ vì mưa không thuận, gió chẳng hòa, thường bị Thiên Tai Thủy Ách. Dân cư thì đa số nghèo cực ít kẻ giàu sang, nhọc nhằn hơn là sung túc. Mỗi một ngày chưa hưởng vui trong một lúc. Mỗi một tháng chưa hưởng sướng trong một ngày. Mỗi một năm chưa đặng an vui trong một tháng. Phần nhiều yếu đau hơn lành mạnh, lo sợ hơn sống yên, phiền não hơn sướng vui. Vì lẽ ấy nên dân cư tranh giành bởi mong sao tấm thân nhàn hạ. Thù hận vì món ăn manh áo, chém giết vì Được Mất, Hơn thua, nhai nuốt vì Thèm Khát, Dâm Dục bởi ước mơ. Dân Cư không ngừng sự đòi hỏi mà tự gây tạo Trả Vay cùng Vay Trả vậy.

Trưởng Giả Kiên Đề Ni được một cái là giàu sang sung sướng hơn dân cư. Ý Chí và Tâm Tánh rộng rãi hơn dân cư. Biết thương đám dân cư vì bị nghèo, nên chi Trưởng Giả thường giúp đỡ bằng mọi cách nhưng với mức độ có hạn, không thể cứu giúp theo Chí Nguyện của Trưởng Giả.

Trưởng Giả thường quan sát hay suy nghĩ nhận xét thấy dân cư các khía cạnh như: lam lũ vì ý chí yếu hèn, thấp thỏi trong các nghề nghiệp của mưu sanh, Trưởng Giả càng ngày lại càng tỏ tình thương hại.

Một hôm Trưởng Giả nghĩ thầm và quyết định tự nói:

“TA không thể ngồi yên mà suy nghĩ khi dân cư: Sanh Tử Bệnh Khổ. Ta phải làm và phải tìm phương thức cứu nguy.” Chí nhất định xong bèn thu xếp hành trang tìm cho đặng ngọc LƯU LY HOÀN CHÂU đem về giải ách. Trưởng Giả bước ra khỏi cửa, bèn ngước mặt lên Hư Không tỏ bày sự cao cả chung cùng tròn khắp êm ấm bất tận với mọi người có những gì đem lại dân cư.

Trưởng Giả mỗi một mình nhắm hướng Đông đi mãi... Ngày... Tháng... lần qua theo gót chân Trưởng Giả... Khi qua khỏi rừng, lúc qua khỏi núi, cùng với chim hót gió đưa trong ba năm ròng rã, đến một con sông rộng choáng lối đi, chẳng còn cách gì đi đặng nữa, Trưởng Giả liền vào khu rừng bên cạnh lấy SÁU KHÚC CÂY đóng bè chắc chắn và một gậy Trúc làm sào lướt qua sông Cách...

Thân Tâm Trưởng Giả êm dịu đến bãi cát vàng xinh xắn, gió mát cảnh vui, muôn màu tươi sáng. Trên bãi có một ngọn Tháp óng ánh mái vàng Trưởng Giả từ từ đi đến, thấy có tấm biển đề hai chữ: BẢO CHÂU.

Trưởng Giả lòng mừng bước vào, có vị Sư đã đón sẵn. Hai bên chào hỏi đầy đủ nghi lễ và cùng nhau ngồi thứ lớp, Trưởng Giả đứng lên nghiêng mình xá vị Sư thưa gởi tất cả ý định của mình và mong tìm Lưu Ly Hoàn Châu về cứu giúp dân cư đang bị Sanh Tử Bệnh và Khổ đặng lành mạnh an vui giàu sang bất tận. Vị Sư bình dị lại thong thả nói:

“Nầy Trưởng Giả, ở đây chẳng thiếu chi châu báu, chẳng thiếu chi Ngọc Bích Trân Châu, chẳng thiếu chi Cành Vàng Hoa Ngọc, chớ chẳng thiếu gì Lưu Ly Hoàn Châu của Trưởng Giả vừa nói. Nhưng các Châu Báu ấy nó có thể làm cho vui thích một hồi rồi cũng chán. Nó có thể làm cho áo đẹp nhà sang, rồi cũng không ngừng lòng tham muốn. Nó có thể cung cấp cho các món ăn ngon ngọt rồi cũng nhàm, chớ không tồn tại vì viễn vông, chớ không giải khổ đau vì Sanh Tử. Nó chẳng tận cùng của tập khởi não sanh, nó chỉ độ một đoạn đường vì công đức. Vì sao? Vì nó còn Sắc Vọng Trưởng Giả nên qua khỏi Biển Cả Năm Màu không mắc míu đến Đông Độ Dược Sư mà thọ lãnh Hoàn Chân Bất Biến.” Nói xong vị Sư chu cấp tất cả các vật dụng đưa Trưởng Giả đến bờ biển Năm Màu Trưởng Giả lòng không nghi kỵ. Vị Sư lại lấy trong tay áo ra chiếc thuyền xinh xắn nhẹ nhàng đặt trên mặt biển.

Hai bên cáo biệt nhau và cầu chúc nhau xong chiếc thuyền nọ trở thành to lớn đầy đủ tiện nghi cho Trưởng Giả. Thuyền xuôi giòng trên mặt nước qua năm màu sắc lạ lùng như Nghi, Sợ Sệt, Nôn Nóng, Mong Muốn cùng Ngẩn Ngơ... Nhưng đối với Trưởng Giả vì tình Duy Nhất chẳng riêng tư không cầu cạnh, nhất tâm BI DŨNG Hạnh Nguyện độ dân nên không chán nản chẳng hoài nghi, lướt qua các ngọn sóng diễn từng màu thay đổi, Tâm không sờn, ý chẳng động vọng, trọn 49 ngày đêm qua bờ bên kia.

Khi Trưởng Giả vừa đặt chân lên bờ Trưởng Giả tự nói: “Lạ thay! Lạ thay! Không còn ngọn gió đảo điên, chẳng còn tối tăm mờ mịt. Không còn Thân Tâm động vọng. Chẳng còn tập khí viễn vông. Không còn nghi ngờ hai pháp. Chẳng còn phân đôi Thân Cảnh. Không còn để nói Duy Nhất có không. Đâu là Phi? Đâu là Tức? Đâu đâu trùm khắp viên dung, khó nói, khó bàn, khó biện minh ra đặng. Vì sao? Vì vượt tầm lý luận, vượt tầm hiểu biết nói năng, duy chỉ có Sở Đắc mà thôi.”

Trưởng Giả ngồi yên lặng quan sát dân cư trong nước bị Sanh trong cảnh bị Giới. Trưởng Giả thật biết BỔN LAI nguồn gốc không đảo vọng, không tranh giành phân biệt, không chia rẽ thù hèn, không chém giết nuốt nhai, không chê khen phải quấy, không ái nịch gần xa, không đắm say thiện ác, không đạo đức cũng không lìa bỏ đạo đức, tất cả thảy đều Viên Tịch Đẳng Minh Chánh Giác, vẫn khó bàn khó nói, vượt tầm biện luận, không hai, chẳng khác sai Vô Thượng.

Trưởng Giả lại chân biết: Dân Cư bị sanh trong nước, nước ấy hiện hành có bốn Con Quái, bốn con ở bốn nơi Đông, Tây, Nam, Bắc. Bốn con quái ấy ngày đêm thi nhau phun hơi độc làm cho dân cư biến tánh Chân Như trở thành nóng lạnh lộng hành. Bốn tánh ấy nó cũng là CÁI MUỐN và NGHĨ làm theo ý nghĩ trở nên tư riêng vị kỷ thành thử có muôn ngàn vạn pháp gọi là NGHIỆP. Chớ dân không có Nghiệp, do vậy Phật nói chúng sanh bị nhiễm độc mà mê lầm lại lầm nhận là mình. Bốn chất độc ấy nó cũng thành Sát Đạo Dâm, chớ dân cư bổn lai không có Sát Đạo Dâm, nhưng nhận là mình thành có Sát Đạo Dâm. Chất độc nó là một mối giềng đối đãi không ngừng, chớ dân không ngừng, chớ dân không có đối đãi, vì trót mê mà có đối đãi, vì tập khởi và chấp nhận nên bị nhiễm sanh tử luân hồi.

Bốn con quái ấy nó lại phun hơi độc lên Hư Không và Biển Cả, nên trên hư không có từng đám mây buông tỏa, có năm màu sắc chuyển xoay, có gió lộng không ngừng, có đốm sao cùng khắp biến thể mặt trời, mặt trăng tiêu biểu cho tối sáng đêm ngày. Dưới nước có sóng nghiệp diễn thao tượng trưng cho thế gian lặn lội các nghiệp không ngừng, khổ sướng tranh nhau và vẫn có năm màu không khác với hư không vậy.

Còn nơi đất liền nhà cửa dân cư vì điên loạn mê mờ trở thành Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, chung lại Ngũ Ấm Lục Trần hay còn hơn thế cũng vì đảo loạn thọ chấp nên hình quay cuồng tham muốn, Trưởng Giả lại biết tỏ rõ tận cùng nguồn gốc Tử Sanh thay phiên đổi lớp, diễn biến từng cảnh vì tập khởi mà thành, vì chấp vọng ái nịch trong nhân duyên mà bị diễn nên tấm tuồng vợ chồng con cái lớn nhỏ bà con nội ngoại quyến thuộc quay quần trong tình Đồng Nghiệp, Trưởng Giả chân biết tỉ mỉ cùng khắp tận từ không thiếu sót mảy may, bèn đứng dậy phủ áo đâu đấy xong xuôi lấy chiếc thuyền thâu nhỏ bỏ vào tay áo, bước một bước về đến nhà.

Lúc bấy giờ dân cư hay tin Trưởng Giả đã về và đã tìm đặng nhiều báu vật bố thí cho dân. Họ cùng nhau bàn tán nào là cả gánh, cả khiêng, cả bao, cả bọc, mỗi người được một viên thì giàu sang vô kể... họ mới sắp đặt từng lời nói, từng cử chỉ để biện minh gia cảnh mong được sự cứu giúp nhiều hơn.

Khi bàn định xong đâu vào đó, họ bàn cùng nhau đến nhà Trưởng Giả, kẻ nói chuyện nầy, người kể cảnh nọ, đua nhau mà bày tỏ đâu vào đó xong, Trưởng Giả bèn đem chuyện thật ra mà nói, dân cư thảy đều ngơ ngác nản chí nên chẳng hiểu đặng, nghe đặng mảy may nào, lại thêm buồn ngủ, kẻ ngáp dài, người thì ngứa ngáy bồn chồn, cùng nhau bỏ ra về chẳng còn thấy một người ở lại.

Trưởng Giả mới nghĩ: “Lạ thật! Lạ thật! Tại sao dân cư chẳng nghe được lời ta nói? Chẳng tin ta chân thật? Tại sao nói thật tướng không thọ lãnh đặng? Ta chỉ bày mối lợi vô kể mà không nhận lại đòi hỏi cái điên cuồng nhỏ nhen không bền chắc. Tại sao vậy? Vì sao vậy ???”

Trưởng Giả lại quan sát: Từ trên đến dưới, từ trong ra ngoài, từ sơ nhiễm đến tập nhiễm, từ sơ khởi đến tập khởi, từ khởi tín đến tin vâng, từ ưa muốn đến không muốn, từ không muốn đến đặng muốn, từ chưa nghe đến đặng nghe, từ chưa thấy đến đặng thấy, từ chưa biết đến đặng biết, từ một pháp đến vạn pháp lầm chấp, nhận lãnh mà điên loạn, theo sự điên loạn mà khởi muốn cũng điên loạn nên Bị Sanh Chịu Tử phải xuôi dòng trong di chuyển mà luân hồi sanh tử.

Trưởng Giả soi khắp các căn nghiệp điên loạn ưa muốn không đồng của dân cư vì tập nhiễm thanh thô nhiều ít, nên phát sanh khôn dại tốt xấu giàu nghèo mà tượng trưng cho Chánh Báo Y Báo cùng Phước Báo để trả vay, mỗi mỗi không sai chạy vì 4 con quái làm chủ ban cho nhiều ít, phun hơi độc hóa sanh, sanh hóa. Nó lại làm cho tất cả các vật dụng cây lá biến thành muôn hình vạn cách cho dân cư ăn thôi ngoài ra chẳng có chi là khác cả.

Trưởng Giả đã quan sát tất cả chu đáo, bèn giả làm điên loạn cho phù hợp thích nghi từng lớp dân cư, làm cho dân cư ưa thích dùng phương tiện ấy để dìu dắt dân cư đặng qua bờ Bến Giác thụ lãnh Hoàn Chân là mục đích chính của Trưởng Giả vậy.

Trưởng Giả mới hô hào: “TA đặng Hoàn Chân. TA đã thành Chánh Giác. Các Ông mê mờ vì vô minh che lấp sanh tử luân hồi. Muốn đặng như ta phải tin ta chỉ bày nhất tâm kiên dũng đặng thụ lãnh Hoàn Chân Thiện Mỹ, giải thoát Tử Sanh Thường Còn Bất Tận.”

Từ ấy Trưởng Giả chung cùng với đám dân cư tùy theo căn cơ mà diễm nói các pháp, lần lượt có kẻ nghe hơi được, có người được cũng chưa được, Trưởng Giả dùng Nhân Duyên làm một mối liên hệ cho đạo tràng. Lấy Nhân Duyên Sanh làm cho sự tăng trưởng trí tuệ. Lấy pháp Tứ Đại làm cho chẳng chìm đắm và thân điên loạn. Lấy 36 pháp bất tịnh giảng giải làm cho chung cùng bình đẳng. Lấy Vô Ngã làm pháp để né tránh chỉ chỗ điên loạn dân cư. Trừ giảm Ái Nịch mà nói pháp Vô Thường, Giải hận thù mà nói pháp Đại Bi. Mở tâm bủn sẻn nói pháp Bố Thí. Phá tánh buông lung mà nói pháp Tinh Tấn Nhẫn Nhục. Trên con đường chỉ dạy cho dân cư khi Thuận lúc Nghịch, khi Khen lúc Chê, tùy theo đễ diễm nói miễn cho dân cư Trí Tuệ tăng trưởng, tâm ý rỗng rang tánh bình đẳng, sáng soi Nghiệp Thức cùng vọng khởi của bốn con quái mà mình lại lầm nhận. Sau khi tỏ biết không còn lầm nó nữa gọi là tỏ tánh, cũng gọi là Giải Thoát của Chỉ Định Duy Nhất vậy.

Khi ấy đặng tự tại vô ngại vì rõ các pháp. Cũng như kẻ rõ biết mình có bệnh điên loạn vì bị nhiễm độc do bốn con Quái nên chữa đến Không còn bệnh. Chớ chẳng phải chính bản thân của mình không đâu. Chẳng khác không Ta trong thời điên loạn, có Ta Chánh Giác chung cùng trùm khắp bất nhị. Lắm bậc chấp Không vì chưa tỏ tánh nên bị sa vào Phi Phi Tưởng.

Lúc ấy Trưởng Giả biết tầm hiểu biết dân cư bèn nói pháp Phi Nhân Duyên và chỉ bày Hạnh Nguyện để rõ lối mê lầm của mình, đặng sạch Nghi qua bờ bến Giác vậy.

Bấy giờ nhà Vua nghe tin Trưởng Giả tìm đặng Châu Quí Báu Lạ, nhà Vua bèn nghị bàn với các quan. Qua ngày hôm sau cùng với Hoàng Hậu, Thái Tử, Cung Nga Mỹ Nữ và quan quân đem theo ngựa xe lọng phướng và voi lạc đà để chuyên chở hành trang. Lại tất cả Nam Nữ trong Cung và ngoài Thành đồng đi theo nhà Vua đến nơi Trưởng Giả để cầu hỏi.

Trưởng Giả đã biết nhà Vua đến, nên ngài bảo dân cư đâu đó ngồi im bất động, một khẻ không khua, duy chỉ có gió vẫy cành cây, mây luồng theo gió.

Nhà Vua cùng tất cả đến nơi, để ngựa xe voi lạc đà mà đi bộ. Nhà Vua vừa đi vừa nghĩ thầm TA chưa bao giờ đặng chốn im lặng như thế nầy, chưa bao giờ để cho cây cỏ sống tự nhiên, chưa bao giờ để cho cung nga yên giấc, chưa bao giờ để tiếng nhạc nghỉ ngơi, chỉ trừ khi ta êm giấc. Nhà Vua lại nhìn xét các quan hầu, các quân lính cùng khắp mọi người chìu chuộng nhà Vua, chăm sóc nhà Vua từng ly từng tý, chẳng khác nào nuôi nấng trẻ thơ sinh, gìn giữ bảo vệ nhà Vua chẳng hơn người bị canh gác trong một qui định của thiên nhiên bắt buộc. Nhà Vua nghĩ đến đó liền đưa tay khoát quân hầu cận dừng bước đi sau, để nhà Vua tự do đi trước. Khi đi nhà Vua thầm nghĩ nhận thấy khoan khoái lạ thường, thung dung vô kể. Nhà Vua lại tự cho là Báu Lạ giúp ta chăng, liền có một sự vui vẻ cực kỳ làm cho Thân Tâm kính mến.

Nhà Vua đến trước Trưởng Giả cung kính vái chào, Trưởng Giả nghiêng mình đáp lễ. Vua quan thứ lớp ngồi yên đâu vào đó, nhà Vua bèn đứng dậy thưa hỏi:

“Tất cả các châu báu mà Trưởng Giả tìm đặng có vật nào là quí hơn cả? Vật ấy có pháp lạ chi chăng? Trấn an thế nào? Bền bỉ đến đâu? Xin Trưởng Giả giải đáp.”

Trưởng Giả nói: “Kính thưa nhà Vua, các báu tôi tìm đặng rất nhiều không thiếu sót, vật nào nếu hợp việc dùng thời quí hơn cả. Cũng pháp lạ vô cùng, cũng trấn an trộm cướp, cũng bền bỉ bất tận. Nhưng có một cách lạ lùng, cho mà không lấy được, vì sao?

Vì tự hạ phàm phu
Tự tăng Thánh sống
Gìn giữ của mình
Cho Ta là phải

Đuổi bắt hư danh
Theo toàn Vọng Ước
Bất Tín hồ nghi
Cản ngăn sự lành.

Những cái ấy nó làm cho không Thấy đặng, không Nghe đặng, lại không Biết đặng của châu báu thời làm sao mà thọ lãnh?”

Nhà Vua thưa hỏi: Làm thế nào đặng Thấy? Làm thế nào đặng Nghe? Làm thế nào đặng Biết?

Trưởng Giả nói:

Muốn Thấy vật lạ
Phải làm sự lạ
Pháp lạ khó nghe
Nhà Vua phủ xả
Tất cả Thiện Ác

Tâm Ý rỗng rang
Để nghe tôi nói.

Nhà Vua bèn ngồi yên bất động. Trưởng Giả nói:

“Nầy nhà Vua:

Chủ quán Thân ta
Như chết chưa chôn
Buông xuôi Thương Ghét
Quan sát thế gian

Quá muốn thành tham
Điên loạn dọc ngang
Nên thành Thuận Nghịch
Luyến yêu ái nịch
Xoay chuyển mịt mù
Được mừng mất giận
Riêng ta không hận

Tâm Ý rỗng rang
Tánh Thấy quân bình
Báu hết rung rinh
Gọi là Nhãn Tịnh
Đó là Cái Thấy.

CÁI NGHE

Nghe pháp lạ không Nghi
Cũng không nhàm chán
Cầu tiến không ngừng
Ví người mài gươm báu
Miễn bén là hơn
Đặng cái Nghe bất nhị.

CÁI BIẾT

Biết nhỏ chẳng chê
Biết lớn không mừng
Biết nhiều chẳng phách
Biết lắm không thôi
Chừng nào Chánh Biết
Mà Đắc tận biết
Thọ lãnh Hoàn Chân Thiện Mỹ.”

Nhà Vua nghe xong mừng rỡ liền đảnh lễ Trưởng Giả và nói: “Chưa bao giờ được Nghe, nay đặng Nghe. Chưa bao giờ Thấy những cái khó làm nay quyết làm. Chưa bao giờ muốn Biết những cái khó biết, nay quyết Biết.”

Nói xong nhà Vua bèn hỏi các dân cư các pháp nào đã đặng? Các món nào đã đến? Dân Cư đồng thưa với nhà Vua:

“Cái đặng đều khó đem bày
Lần hồi được biết mới hay kia mà
Nào đem tỏ nói chỉ ra
Nhất Tâm Bi Trí rõ hòa Chân Như.”

Nhà Vua nghe xong lại hỏi tất cả Hoàng Hậu Thái Tử cùng các quan quân và cung nữ, ai muốn về triều thì tự ý về. Tất cả đều thưa: “Muôn tâu bệ hạ, bệ hạ cho chúng tôi đồng ở lại, một là gần trưởng giả để học Nghe-Thấy-Biết bản chân. Hai nữa gần bệ hạ để hôm sớm cùng nhau cho trọn nghĩa quân thần.”

Nhà Vua nói: “Ta khá khen cho các Ông, biết chọn Bản Chân mà xa lìa Danh Lợi, cầu Giác hơn cầu giàu sang hư vọng, vậy các ông cùng ở lại.”

Từ đó ở lại tu tập Trưởng Giả chỉ bày không thiếu sót. Khi đặng Tin Vâng Kính trọn vẹn thuần túy, Trưởng Giả và tất cả ra đi, vẫn qua các khu rừng và các dãy núi như trước, vẫn lướt khỏi sông CÁCH... lên đến bãi cát Vàng, thời ngọn tháp Bảo Châu đương nhiên to lớn, mái tháp trổ ánh vàng rực rỡ, cây cảnh tươi vui êm dịu, tiếng nhạc du dương các loài chim như Khổng Tướt, Oanh Võ kêu vang mừng rỡ, muôn màu sắc đều có hào quang soi sáng, dân cư cùng tất cả nhẹ nhàng khoan khoái khó mà kể đặng.

Khi ấy có một số dân cư quá ư mừng rỡ mến tiếc phân vân, liền đến van xin Trưởng Giả cho được ở lại nơi đó mà tu. Trưởng Giả vừa đồng ý ưng chịu, tức thời cũng trong lúc đó trên ngọn Tháp bổng tiếng chuông ngân vang dậy, mùi hương bay tỏa khắp nơi, bãi cát vàng trở thành muôn châu vạn ngọc.

Nhà Vua cùng dân cư thưa hỏi:

“Kính thưa Trưởng Giả, vì nhân duyên gì mà nơi đây lại có các Châu hiện khắp, có hương và hào quang tô điểm muôn màu, khi Trưởng Giả ưng chịu cho một số xin ở lại.”

Trưởng Giả nói:

“Các Ông cũng nên biết rằng: Số xin ở lại là vì Sắc Vọng chưa liền, Tập Khởi chưa liền, Tập Khởi chưa hết, Mong Muốn chẳng sạch, mến thương luyến tiếc, xin ở lại để mà tu. Khi các bậc ấy tu xong sẽ Thấy, sẽ Biết, sẽ gặp vị Đại Giác đưa qua bờ bên kia vậy.”

Trưởng Giả nói xong bèn với tất cả mọi dân cư, nhà Vua đều ra đến Biển Năm Màu, lúc ấy tất cả thảy đều không còn lấy một Nghi Ngại nào cản ngăn hay xâm chiếm đặng. Vì nhờ như vậy nên rỗng rang bình dị. Trưởng Giả bèn lấy trong tay áo một chiếc thuyền, lại nhẹ nhàng đặt trên mặt nước. Thuyền bỗng trở thành to lớn đầy đủ tiện nghi chẳng thiếu sót. Tất cả vừa bước lên thuyền đâu đấy xong xuôi bỗng trên hư không có tiếng nhạc trời các hoa Đàm trải khắp mặt biển. Lại có tiếng tán thán không ngừng, các hạt châu rơi sáng cả biển.

Nhà Vua cùng dân cư đồng thưa hỏi, Trưởng Giả mới nói:

“Các Ông cũng nên biết rằng: Tiếng nhạc châu rơi cùng những lời tán thán ấy là do bốn vị Hộ Pháp khi còn ở nơi đây mà nói thế. Đến lúc vào bờ bên kia bốn vị ấy chính là NHƯ LAI TẠNG, cũng gọi là PHÁP TẠNG trợ duyên cho các Ông. Khi còn mê mờ bốn vị ấy giả đò làm bốn con Quái, đó chính là một Bổn Nguyện thôi, các Ông chớ nghi, chớ nghĩ bàn. Vì sao? Vì việc làm của Như Lai khó nói.” Các bậc đều đảnh lễ ngồi im lặng.

Khi vừa đến bờ bên kia, đồng bước chân lên bờ, đồng nhau thảy đều nở một nụ cười bất tận...

So vào Phẩm Phương Tiện trên đây đủ nhận thức mà rõ biết pháp Phi Nhân Duyên đối với chư Bồ Tát cùng với bậc Đại Giác mà thôi. Còn ngoài ra phải nương theo Nhân Duyên Pháp tu hành, nếu trong sự Phi Tức (Có Không) chưa đặng tỏ rõ tận cùng, chớ nên vì lối nhận lờ mờ phá chấp, tự sinh Tăng Thượng để phán phê tất cả việc làm của Bồ Tát, đồng xem Kinh chỉ vào việc làm của Phật hay lời nói của Phật vội cho mình đã biết mà bị lầm.

Đối với chư Bồ Tát trong Độ Sanh vì chúng sanh dùng tất cả phương tiện cùng nương theo Nhân Duyên mà chỉ bày dạy dỗ chúng sanh, khi làm Thuận lúc làm Nghịch Hành, hoặc giả có muôn ngàn sở chấp chăng cũng không có một chấp. Vì sao? Vì Hạnh Nguyện mà in tuồng như vậy, Chư Bồ Tát trơn liền không mắc miếu Tức Phi nên chẳng có Phi Tức. Vì vậy cho nên chư Bồ Tát càng ngày càng Phước Điền Tăng Trưởng chớ không có tội, chỉ vì Bổn Nguyện mà thôi.

Tất cả các bậc tu hành nên nương theo Nhân Duyên mà tỏ biết PHI TỨC cùng TỨC PHI đặng vào CHÁNH GIÁC vậy./-

NAM MÔ ĐÔNG ĐỘ HIỆN GIÁC
DƯỢC SƯ LƯU LY QUANG NHƯ LAI

19. CÁC PHÁP

CÁC PHÁP khó giảng giải tận từ hay nói năng hết đặng. Vì sao lại khó giảng nói tận hết? Vì sao, như:

Có một thuở Đức Thế Tôn Ngài thuyết pháp tại khu rừng Ngài đồng hỏi:

“TA nói pháp với các Ông có nhiều chăng?”

Lúc bấy giờ chư Đệ Tử kính thưa:

“Bạch Thế Tôn thật nhiều.”

Ngài gật đầu và nói:

“Pháp TA nói, nếu đem suy với tầm hiểu biết của các Ông thì nó thật có nhiều. Nhưng đối với NHƯ LAI chẳng thấm vào đâu cả. Vì sao vậy? Vì nó chẳng khác mấy Cây Lá trong rừng nầy. Nếu đem kiểm điểm từng cây lá thì thật khó kể hết, khó đếm đặng, các pháp của Như Lai cũng thế. Lời TA đang thuyết, hay đã từng thuyết với các Ông, chẳng khác nào số LÁ TA đang nắm nơi tay đây. Chớ không thể nói tận từ hay hết đặng. Đó chính là lời chân thật. Vậy các Ông cần phải TU CẦU để mong lãnh các pháp của Như Lai mới tận hết

Trước tiên cầu Pháp thì các Ông phải: TÍN HẠNH NGUYỆN. Bằng không Tín Hạnh Nguyện hay thiếu sót khó thành tựu. Vì sao? Vì TÍN để nghe trọn lãnh pháp. Vì HẠNH được Ngộ mà nhận pháp. Còn NGUYỆN thâm nhập các pháp mà vào Biển Pháp, các Ông nhớ lấy đặng thọ lãnh Pháp của Như Lai.”

Phật nói trên thì đủ chứng tỏ các pháp nó vô biên khó mà nói hết. Còn bậc cầu Pháp để lãnh hội cũng không dễ gì, duy chỉ TÍN TÂM thề nguyện học, gọi là Phật Pháp Vô Biên Thề Nguyện Học, nếu không TÍN khó mà nghe để thâm nhập các pháp.

Chẳng khác nào: Kẻ Tín vị Lương Y, vị ấy hái cây lá trước mặt làm thành món thuốc cho bệnh nhân uống. Kẻ Bệnh Tín mà uống không ngăn ngại nghi ngờ, bệnh liền khỏi. Bằng không Tín thời chẳng uống, làm sao được khỏi bệnh? Bậc cầu nghe pháp cũng vậy. Mà các pháp nó vẫn ở ngay trước mặt, không Tin khó nghe, khó lãnh.

Nếu bậc tu mà nghe cho đặng Pháp là một sự khó. Còn nhận lãnh hay thâm nhập lại càng khó hơn. Bậc như vậy phải là bậc Tín Tâm bằng chẳng Tín Tâm thời khó mà nghe đồng khó lãnh.

Do đó nên thời Hiền Kiếp các bậc tu chuyên chính mới rộng phát BA TÂM NĂM NGUYỆN đặng có TỰ LỰC để tu tập vạn hạnh làm cho say mến Đạo Tràng và Thân Tâm thuần túy, để Tín Tâm Bất Thối mà kiên cố nhận nghe lời chỉ giáo của Thiện Tri Thức lãnh lấy một Pháp liền sở đắc các Pháp. Đó chính là tấm gương không ngoài Tín Hạnh Nguyện.

Đến ngày nay vẫn có nhiều bậc y Tôn Chỉ ấy lần đến nơi NHỨT NGUYỆN TÍN TÂM để tiêu dẹp Nghiệp Đảo tu tập, chẳng còn nghi ngờ được trọn lãnh Pháp mà Tri Kiến.

Các Pháp nó có nhiều trạng thái lạ lùng đối với những kẻ mê lầm. Nó lại rõ rệt đối với bậc đã Biết. Bởi khác vì mơ màng chưa chu đáo, nên dễ bị thường ngăn mà chấp trở thành căn bản Giới Hạn. Nếu tu hành không đến Tín Tâm thì làm thế nào phá nổi các bờ ngăn chấp? Vì vậy Tín Tâm chính là một lợi khí lần tỏ thông các pháp. Còn không Tín Tâm chẳng nghe được Pháp nên gọi là Chấp Pháp. Vì lầm nơi bờ ngăn củng cố nên chẳng thoát Trần Lao, phải trở thành Tam Giới.

Đứng tầm quan sát các bờ ngăn nơi Pháp Giới từng lớp Thế Gian và các bậc tu hành. Nếu cầu Tín đặng thì nó trợ giúp cho các bậc tu hành hay thế gian tiến bộ lần biết. Bằng củng cố thời bị trong vòng Pháp Giới an trụ năng sở để thọ chấp.

Từ Thế Gian Giới: Nếu có người Ấn Tượng hay Quan Niệm trong Sát Đạo Dâm cùng Hỷ Nộ Ái Ố và Danh Giả hay Thường Lạc và Ngã Tịnh đều các thú vui hạnh phúc của mỗi người, theo nguyện vọng của họ mà thọ chấp, thì làm thế nào?

Bằng từng bậc tu: Nếu nói Pháp Xuất Ly Thế Gian hay các pháp đều Huyển Hóa thì sẵn có nhiều bậc chấp nhận xuất ly thế gian các pháp đều Huyển Hóa?

Bằng nói các pháp nó: Không Dừng Trụ, Vô Lai Khứ hay Viên Tịch, thì sẵn có nhiều bậc chấp nhận như thế thì làm sao?

Nếu nói pháp không thể chỉ, chẳng thể bàn, bình đẳng Bất Nhị, không hai hay sai khác mà LẶNG THINH cũng không Hình chẳng Tướng mà ly hẳn gọi là rốt ráo thì thế nào?

Các Pháp rất tinh nhuệ chỉ vì Chưa Biết vội chấp nhận nó nên mới có từng Bờ Ngăn Giới Hạn sự hiểu biết khác nhau, thành nơi Tu Chứng cao thấp.

Khi chưa tu, hãy còn ở nơi Thế Gian Giới thì mỗi người họ vẫn có mỗi cách tự hào là khôn ngoan chánh đáng hiền lành. Lúc đặng tu thì đã có sẵn cho mình là Chơn Chánh hiểu biết. Đó chính là BỜ NGĂN thường chấp.

Bằng nương theo Tín Hạnh Nguyện thuần túy, có một ĐỨC TIN vững vàng nơi Tam Thế hay bậc Thiện Tri Thức để lãnh hội lời chỉ giáo tu hành, thì các nghiệp Tự Nhận bờ ngăn trên tan dẹp đặng LÝ SỰ không chướng để tu lần đến Tỏ Pháp Đắc Pháp viên dung toàn giác. Chừng ấy mới CHƠN GIÁC các pháp nó sẵn có mạch lạc thứ tự khỏi Nghi lại tránh được nơi nói năng bừa bãi.

Chẳng khác nào: Buổi ban đầu mới vào trường học, thời học chữ A, chữ B, chữ C phải học cho thuộc 24 chữ. Xong tập ráp vần, đến biết đọc và biết viết. Khi đã học giỏi thật biết sắp xếp đúng sai trong 24 chữ, không còn nghi ngờ có thể làm Thơ hay viết Văn trôi chảy. Các pháp nó cũng là Bài Văn chung gồm 24 chữ thay qua đổi lại mà thôi. Nó cũng là một bài Toán chưa giải đặng trong 10 con số. Khi đã làm được thi thơ hay viết qua cốt truyện, thời khỏi lầm nhận sống trong tưởng tượng mê mờ. Lúc đã giải xong một Bài Toán Vũ Trụ thời Sở Đắc Chân Lý hiện tiền.

ĐẾN CHƠN GIÁC CÁC PHÁP THÌ NÓ:

Từng giai đoạn nào gọi nó là: Huyển, lúc nào Không Huyển, quán thế nào không dừng trụ? Không quán thế nào nó dừng trụ? Sao gọi Không Trụ mà Trụ? Thời nào Vô Khứ Lai? Lúc nào có Lai Khứ? Lối nào không thể chỉ? Việc gì có nơi chỉ? Khúc nào nó Không Hai? Tận chi là Không Pháp? Lúc nào là lúc Lặng Thinh? Khi nào là khi phải Nói? Thời nào là thời Viên Tịch? Các pháp nó không bỏ, cũng chẳng lấy Toàn Giác mà ĐẮC.

Các Pháp tu học không ngoài ra chữ Tín để lãnh Pháp. Hạnh Nguyện Độ Sinh đi trong vạn pháp không ngoài Tròn Duyên, Tròn Nguyện. Nếu không thi hành Tròn Duyên, Tròn Nguyện để tỏ pháp thời thua kẻ phàm nhơn họ biết làm tròn Bổn Phận.

Sự Tín Hạnh Nguyện Tròn Duyên và Tròn Nguyện, chính là con đường của Chư TỔ cùng BỒ TÁT, PHẬT dùng để độ sinh lại tỏ rõ tuần tự và các đường tu ngăn chấp của các bậc Tu Chứng.

Khi đã biết tác dụng các pháp, vì Tri Đạo mà Thuyết Đạo. Nếu gặp phải từng bậc tu chướng, mình không chướng, lại có thể dùng đủ phương tiện giúp họ được Tri Kiến miễn là bậc đó Khởi Tín, nếu chẳng khởi tin là Vô Duyên, khi đã Vô Duyên thì không nói năng bàn cãi. Vì sao? Vì Phật bất hóa độ vô duyên, nên bậc Tri Đạo chẳng thuyết đạo với kẻ vô duyên.

Những lời ưu tú Tròn Duyên không ngoài Tín Hạnh Nguyện tu đến Trọn Biết từng lớp của các Pháp. Khi Đắc các Pháp thời không còn nghi sợ pháp, dùng đúng lúc, nói đúng chiều, không Bỏ chẳng Lấy, nhưng hoàn toàn.

Chẳng khác nào: Rừng kia có nhiều Cây Lá, cây lá ấy đều là vị thuốc. Biển Pháp cũng thế. Mỗi cây và lá đều sẵn có một Tánh Dược nên có thể hái hết đem về làm thuốc. Các pháp cũng thế, mỗi pháp có một Đặc Tánh cứu mê lầm đặng Tri Kiến Giải Thoát.

Nên Văn Thù Ngài nói:

“Các hương vị ngọt bùi, nơi rừng cây biển pháp của Như Lai mà tất cả Chúng Sanh chẳng chịu dùng lại đi tìm xa xôi ảo vọng cao siêu huyền bí, thật là lạ.”

Các pháp hiện hữu đoạt đến khỏi lầm gọi là CHÂN LÝ chớ chẳng chi là Chân Lý. Đối với bậc đã biết tỏ rõ biển pháp gọi là Đại Lương Y. Biết chữa các ngăn chấp gọi là Điều Ngự, Hạnh Nguyện trọn gọi là Thiên Nhơn Sư, làm cho tất cả tăng trưởng Trí Tuệ phá mê lầm, đó chính là điểm các bậc tu chứng tôn sùng. Bằng bậc chưa tỏ biết hay lưng chừng biết, nếu chẳng cẩn thận dùng phải mà thọ chấp, thời nó chính là Độc Dược.

Đối với Đức Thế Tôn, Ngài thật biết chỗ nguy hại của các hàng Tu Chứng khi chưa hết các Nghiệp đảo điên vội chấp Pháp hay sợ không chấp để mà chấp của hàng Phi Phi Tưởng hoặc ở hàng Tam Thừa Tận Diệt đến Nhị Thừa thọ chấp Tu Chứng.

Nên Ngài nói:

“Thà chưa tu, khi có lỗi lầm ở nơi Địa Ngục còn có ngày gặp Phật. Bằng tu mà Đoạn Dị Diệt để lầm chấp sa nơi Phi Phi Tưởng thật nguy hại vô kể.”

Theo lời dặn ấy, đến thời sau có nhiều bậc tu y Pháp Môn Tiệm Giáo Cấp Thủ. Có nghĩa là Tự sửa Tánh để tìm hiểu các Pháp trên căn bản lìa Tham Sân Si đặng tỏ biết đến mức nào thì tu theo với trình độ nấy, mục tiêu tạo Đức Hạnh mà thôi. Tuy nhiên có một đôi phần chậm tiến, nhưng đa số vào hàng Hiền Nhân hoặc Thánh Tăng.

Giữa thời ấy vẫn còn trong tôn chỉ nương theo Cấp Thủ để mà tiến, dùng sự Thủ Tiến làm mực thước, lấy Trí Tuệ xét soi cẩn thận nên đường tu hành ít bừa bãi. Lại tự nêu Đạo Tràng là mục đích gương mẫu lấy nền giáo hóa hòa hợp để Độ Sanh, lập Di Truyền Cổ Điển làm Đạo Hạnh, nhờ vậy mà Thân Tâm thuần túy, tham muốn ít vọng khởi hưởng được nơi tu tập Bất Thối, thọ lãnh các pháp rõ ràng Tỏ Tánh Đắc Pháp vững chãi, nên ngày nay vẫn còn Tôn Chỉ chép ghi.

Sau nữa, pháp môn Tiệm Giáo Cấp Tiến và Cấp Thủ không thiếu, nhưng lạc hướng trở thành Không Thủ để mà Thủ. Có nghĩa là: Củng cố y kinh để tu. Nhưng trong đoạn Kinh nào của bậc tu thích hợp thời theo đó mà tu, gọi là: TU THEO CÁI MUỐN. Hai nữa, nếu nhìn bên ngoài thì Tôn Chỉnh Đạo Tràng y cổ cựu, hạnh kiểm tốt. Nhưng thâm tâm vọng khởi mong mỏi mau thành. Vì sao? Vì muốn Thần Thông Tài Phép, vì chỉ lấy đó làm mục tiêu mức tiến, chớ chẳng kiểm điểm tan dẹp Nghiệp Căn cầu Tỏ Tánh đặng rốt ráo các Pháp. Lắm bậc chăm chỉ khảo cứu Kinh để tu, hay cốt Phá Chấp gọi là Không Chấp, dùng chuyên Luận Giải thì được phần Trí Tuệ khá. Nhưng thiếu về mọi mặt Đạo Tràng để dung hòa các pháp xuôi dòng toàn giác. Do lẽ thiếu khuyết mà dễ sa vào ba đường Ác thành thử có hiểu biết nhưng vẫn mơ màng nơi Chân Lý.

Một trong hai điểm sai lạc lầm tưởng chẳng rõ biết nơi: Không Chấp để mà chấp lấy Phi Đạo. Chớ chưa hẳn: Trọn biết Phi Đạo, vì sao? Vì cấp tiến phá chấp thì duy chỉ biết nó mỗi một phần mình, nên thường vào các pháp Bất Tịnh nói năng bất tín, liền bị chướng đối ngỡ ngàng mà chẳng trọn biết suốt đạo, phải đi ba đường Ác. Bằng cố thủ để tu chăng, thì chỉ biết một pháp môn mà thôi.

Nếu y tôn chỉ Tín Hạnh Nguyện để lần tiến lãnh hội các pháp rành rẽ, đạo hạnh thâm nhập chung tròn tỏ biết toàn mỹ Pháp Giới đoạt đến Chánh Giác.

Chừng ấy mới biết đặng nơi rừng cây biển pháp chính là Như Lai Pháp Tạng chân thiện Pháp Thân. Thì thử hỏi nó có Dư Thiếu, Tăng Giảm được không? Lúc tu chẳng tu cho trọn thì sự lãnh pháp cũng thế, nào vẹn đâu?

Do lẽ ấy nên Đức Thế Tôn Ngài mới chỉ bày Tín Tâm Hạnh Nguyện đặng nương theo các pháp thề nguyện học.

Đối với Đạo Tràng Giáo Lý thời trước của Đức Thế Tôn và hiện nay không khác mấy. Vì sao? Vì ở nơi mực thước Tín Tâm cầu lãnh các pháp.

Đức Thích Ca đương thời, Ngài chỉ giáo 1.200 vị đệ tử, tuy rằng có một Đức Thế Tôn Chơn Sư, nhưng các hàng đệ tử nào có mấy vị được Tín đầy đủ. Bậc thì Tin Ngài tài phép, bậc thì tin 32 tướng tốt, bậc Tin Giáo Pháp hay, trong muôn ngàn vạn ức lối tin sai biệt, trở thành muôn ngàn vạn ức CHƠN SƯ.

Do đó, mỗi lần Ngài thuyết pháp có then chốt Quyết Định thì ngài nói: “Các Ông hãy tin Ta, lời Ta nói rất chân thật.” Đến nay cũng thế. Nếu bậc nào tín tâm sẽ đặng tỏ pháp, chớ nên vọng đảo thời xưa và hiện nay mà uổng phí đường tu, trong cơ hội có Chí Nguyện Tri Kiến Giải Thoát, khi mà gặp đặng bậc Thiện Tri Thức trọn dùng các pháp mà diễm nói được Trí Tuệ Tăng Trưởng không mắc vào một pháp. Đó chính là Pháp Môn Tối Thượng không bỏ chẳng lấy vậy.

Đoạn trên nói về Tín Hạnh Nguyện cầu lãnh Pháp. Đoạn dưới đây nói về Giáo Lý: Không ngoài làm cho kẻ nghe Pháp KHỞI TÍN.

Bước đường Giáo Lý chỉ dạy, nói năng thuyết giải làm cho kẻ nghe Pháp hào hứng Tin Vâng mà tránh nổi sai lạc thật là khó. Do khó nên mới vừa tu lại vừa Hạnh Nguyện Độ Sinh để cho chúng sinh bờ ngăn phá chấp của mình và của kẻ khác được giải tỏa. Từ lúc bậc Giáo Pháp đã Tri Đạo đến tỏ rõ các pháp khỏi lầm lẫn theo nó thì phải Hạnh Nguyện tỉ mỉ đặng thâm nhập Pháp Giới mới thông đạt thứ lớp tuần tự mà thuyết đạo.

Trong Giáo Lý chia ra nhiều bậc. Bậc vừa tu gọi là bậc Hạnh Nguyện độ mình và giúp người, bậc ấy chưa có một quyết định nương vào Vô Ngã để giáo pháp cho mình hiểu và kẻ được nghe hiểu, đó chính là Giáo Pháp để Tự Lợi Lợi Tha vậy. Bậc nầy khi giáo pháp chưa thể nhận định rành rẽ chỗ Đúng Sai, nhưng nhắm mục đích là mong kẻ nghe được tu hành như mình, nên Hạnh Nguyện rất thù thắng hơn cả. Nhờ thế mà ưa thuyết pháp, thích giúp đỡ cho kẻ tu, chỉ vì Say Đạo, Mến Đạo, để Biết Đạo, gọi là nương vào Hạnh Nguyện Công Đức, cầu Pháp Như Lai tỏ tánh.

Do đó nên đối với bậc nầy trên thì đặng chữ Tín, dưới thì đặng Hạnh Nguyện Độ Sinh, thành thử khi giáo pháp chính bậc nói ra các pháp cốt cho kẻ nghe, nhưng mình lại được nghe trước thật nó có lợi vô kể đối với bậc Tín Hạnh Nguyện trọn. Nhưng cũng có cái hại, vì trường hợp lầm tưởng mình sở đắc. Vì sao? Vì đôi lúc bậc thuyết thật hay chưa bao giờ có y như lời Phật rồi ngỡ mình là Phật mà tự sanh Bản Ngã Tăng Thượng thật nguy hại, điểm ấy nên chú ý.

Nếu bậc tu hành mà tạo đặng Đức Hạnh cho vững, thì qua những giai đoạn trên lại được sự học hỏi tiến bộ, mà lần đến nơi Tri Đạo trọn biết mà Thuyết Đạo.

BẬC TRI ĐẠO GIÁO PHÁP:

Có nghĩa là: Biết các pháp hay pháp môn tu tập chốn Đạo Tràng thảy đều là phương tiện cứu cánh đến giải thoát, do đó đối với sự tu hành không mắc miếu, nên chẳng sợ sệt nơi Đúng Sai. Nhưng phải hạnh nguyện Tròn Nguyện mà hoàn toàn Giải Thoát, thâm nhập rành mạch Thuyết Đạo.

Cũng như, bậc biết rằng: Sắm thuyền để qua bờ giác khi đặng đến bờ giác thì bỏ thuyền lại, đến thật biết như thế cũng là khó chớ chẳng dễ gì.

Tuy lắm bậc biết thế, nhưng nào ai có rành rẽ mối giềng chỗ Sở Đắc các pháp mà Tri Đạo? Thành thử nơi Tri Đạo Giáo Lý có nhiều bậc, ở chỗ mới Tri Đạo hay đã Tri Đạo hoặc trọn Tri Đạo Giáo Lý.

Bậc Tri Đạo Giáo Lý có tự lượng theo kẻ nghe pháp mà thuyết. Bậc ấy có một căn bản diễn nói chỉ giáo cho kẻ nghe pháp được cổi giải các nghiệp bằng phương tiện tìm Chơn Tánh để tu, sau mới lần lượt đưa các pháp đặng hiểu biết để phá mê lầm ngăn chấp, từ Tín Hạnh Nguyện đến Lục Ba La và Tứ Nhiếp Pháp thảy đều chỉ bày tu tập đúng lúc chẳng thiếu sót, vì biết mối nguy hại là: Chỉ thẳng sau bị quanh. Thà tu quanh sau đặng đến thẳng. Nên mới giáo pháp căn bản chẳng sợ lớn nhỏ, đúng sai của chấp pháp, vì chu đáo tỏ biết các pháp mà Tri Đạo Giáo Pháp, đó chính là bậc Giáo Pháp khá.

Còn bậc Tri Đạo Giáo Lý vẫn biết các pháp và các môn tu tập đều là phương tiện cứu cánh đến Giải Thoát. Nhưng lại có quyết định Giáo Lý Tỏ Tánh quá sớm, nên bậc ấy thuyết giải chuyên ròng Phá Chấp.

Làm cho kẻ nghe lãnh hội thiếu căn bản Đạo Tràng Đức Hạnh. Khi tu tập phá chấp đến Tri Đạo thường lâm vào Nghịch Hành Pháp khó chỉnh cho vẹn để thọ lãnh Chân Lý mà tỏ biết rốt ráo, phải hồ nghi bất tín. Đó gọi là chỉ thẳng mà bị quanh. Còn bậc trên chỉ quanh nhưng sau đến thẳng.

BẬC TRI ĐẠO THUYẾT ĐẠO:

Bậc này không vội nói chỗ đúng sai hay mau chậm. Chỉ làm cho kẻ nghe được chỗ KHỞI TÍN. Nếu kẻ nghe chưa đến lúc Khởi Tín thời vẫn vui vẻ để yên. Do lẽ ấy nên bậc Tri Đạo khéo thuyết mới nương chiều đủ cách đối với tất cả mọi người. Khi Hành lúc Dụng cốt làm cho họ được thân cận kính mến, gọi là DIỆU DỤNG. Bậc như thế đủ phương giúp: trong tình Thầy, lúc tình Bạn, hoặc giả tình Bà Con Xóm Làng. Nếu đa số được Khởi Tín bậc Thuyết Đạo mới Giáo Pháp chỉ dạy. Nói đến sự Giáo Pháp của bậc ấy khó nghĩ bàn. Vì sao? Vì tùy thuận mỗi kẻ mà nói, tùy theo sự điều động dắt dẫn, làm cho tất cả kẻ nghe pháp đặng hào hứng tranh nhau để tu, ngó nhau cùng tiến bộ, nhìn nhau mà phát Đại Nguyện. Lại có một Thể Cách chung hưởng tình Duy Nhất Đạo Tràng để tỏ biết pháp môn Không Hai mà Tu Chứng.

CÁC PHÁP DUY CHỈ CÓ:

ĐỨC VĂN THÙ SƯ LỢI PHÁP VƯƠNG TỬ mới nói tận.

ĐỨC ĐẠI LỰC DI LẠC TÔN PHẬT mới chịu tận.

Còn kỳ dư khó mà nói tận từ hay giảng giải hết đặng.

Duy chỉ: TÍN HẠNH NGUYỆN mà lãnh các Pháp.

Làm cho tất cả được: KHỞI TÍN mà thuyết pháp./-

NAM MÔ PHÁP TẠNG HỘI THƯỢNG
PHẬT BỒ TÁT MA HA TÁT
TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN

18. VẠN PHÁP ĐỒNG Y

VẠN PHÁP ĐỒNG Y nói lên để cho các bậc tu hành trong Vạn Pháp soi biết trở về một pháp. Khi đã biết đến Thể Tánh của một Pháp, thời vạn pháp kia nó có thuyên diễn đến đâu chăng cũng chẳng làm cho tâm quái ngại. Bằng chưa biết Thể Tánh của một pháp, phát sanh ra vạn pháp thì mắc miếu ngăn ngại đủ điều, lầm lẫn đủ cách.

Đang bị làm chúng sanh, trót lầm nơi pháp chạy theo vạn pháp, vạn pháp sanh, thì chúng sanh sanh, vạn pháp diệt thì chúng sanh diệt, gọi là Sanh Diệt vạn pháp. Bậc có một chí nguyện quyết tâm cầu Tri Kiến Giải Thoát cần nương theo vạn pháp để tỏ pháp, khỏi lầm pháp, hết đắm chìm trong vạn pháp giác ngộ.

Nếu tu cầu Phước Báo Nhân Thiên hay Tu Luyện trong vạn pháp hoặc tu hành chấp pháp, đương nhiên đã lầm pháp lại dung dưỡng cầu lấy cố định thật là lầm mê thêm nữa chẳng ích lợi chi cả.

Cũng như bấy lâu nay vì lầm nương nhờ trên Mây Khói của vạn pháp hư huyển sanh diệt, lại cầu nó thường còn thời thử hỏi Mây và Khói vốn thể tánh của nó sanh diệt đâu có thường còn, lại cầu thường còn? Đó chính là một điểm lầm lẫn đáng sợ. Nếu tìm tòi soi biết được Mây Khói kia do NƯỚC LỬA phát sanh thì mới nhận thấy sự lầm mê quá kể. Đối với pháp, vạn pháp đồng y chỉ bày cho các bậc tu hành nên nương theo vạn pháp để tỏ pháp, như ở trên mây khói biết đặng mây khói vốn Nước Lửa phát sanh chừng ấy nào có ở trên mây khói mà cầu Chánh Báo cùng Chịu Báo nơi Hư Vọng?

Phật Đạo chủ yếu dạy tu tập, cốt phá mê chấp nơi vạn pháp, trọn về một pháp cũng gọi là cốt làm cho trăm sông trở về một Biển. Trong thời Đức Phật vẫn thường nói Nhất Thừa Vạn Pháp đồng y nguyên thể để đưa Tri Kiến Giải Thoát cho Tín Chúng thọ lãnh Bảo Pháp Đồng Y Sở Đắc Chân Lý.

Nhưng các Tín Chúng mỗi bậc thảy đều có một quan niệm tư tưởng khác biệt trên con đường cầu đạo chưa đúng với chí nguyện lãnh đồng y duy nhất vì vậy nên Pháp Nhất Thừa trở thành vạn pháp Tam Thừa nhiều thứ lớp.

Bậc tu hành rất cần tâm thù thắng qua chướng ngại trong vạn pháp cản ngăn phá mê lầm chấp pháp, đương nhiên có một căn bản tự biết hơn là bị biết, cũng như Tự Giác hơn là Bị Giác, trong tự giác sau nầy mới đến nơi Chánh Giác, bằng cứ bị giác thì rất dễ dàng chấp pháp. Bậc Tự Giác một pháp thời mở thông vạn pháp, đó chính là một yếu tố nhất trên con đường Giải Thoát. Tự Giác cũng là bậc có ý chí tự lập, tự lập tức nhiên có chí nguyện Chủ Quyền hơn Tùng Quyền.

Đối với Phật Đạo đưa cho tất cả sự hiểu biết Tự Giác để tìm lại Diện Mục Bổn Lai Chủ Quyền của mình bị vạn pháp chi phối lầm lẫn từ vô thủy đến nay phải chạy theo trong vòng sanh tử, nên chi cần Chủ Quyền Tự Giác hơn là Bị Giác, cũng như Tự Biết hơn Bị Biết.

Chẳng khác nào:Một nhà Sản Xuất, hơn một nhà Tiêu Thụ, nhà sản xuất tức nhiên Thường Còn, nhà tiêu thụ Sanh Diệt, vì sao? Vì nhà sản xuất lúc bể hư có thể sản xuất ra được liền tại chỗ, còn nhà tiêu thụ phải bỏ tiền để mua sắm một khi hư bể. Bậc Tự Giác đến Chánh Giác có thể tạo thành Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới, còn bậc tu bị biết theo vạn pháp đặng cầu Chánh Báo thì duy chỉ tạo thành một cảnh giới hay một cõi, lúc cảnh giới hoặc cõi ấy hết Phước diệt vong thì phải gia công tu lại, đối với nhà tiêu thụ cũng thế.

Trên con đường Tự Tánh Tỏ Tánh và con đường Tu Luyện khác xa muôn trùng, vì sao? Vì Tỏ Tánh tự biết một pháp cơ bản đồng y thời viên thông vạn pháp, còn tu luyện chỉ gìn giữ có một pháp trong vạn pháp để thọ lãnh Thường Lạc vào Tiên đạo cầu Chánh Báo Nhân Thiên.

Trong vạn pháp đồng y có một ý nhị đầy đủ soi biết tận tường các pháp, làm tâm không quái ngại lãnh đặng Bình Đẳng Tánh Trí giúp cho Trí Tuệ đến Diệu Quang Sát Trí khỏi ngăn ngại lầm pháp trở về Chánh Giác.

SAU ĐÂY LÀ MỘT YẾU ĐIỂM TỰ HỎI ĐẶNG TỎ BIẾT TỪ VẠN PHÁP TRỞ VỀ MỘT PHÁP.

Hỏi: Do đâu sanh vạn pháp?

Trả lời: Do Tâm sanh vạn pháp.

Hỏi: Do đâu sanh Tâm?

Trả lời: Do chấp sanh Tâm.

Hỏi: Vì sao có chấp?

Trả lời: Vì chưa biết nên bị lầm, có lầm liền có chấp. Chẳng lầm thì không chấp khi có chấp, lại có Tâm. Đã có Tâm, Tâm sanh vạn pháp, chạy theo vạn pháp, vạn pháp vốn sanh diệt vì vậy mới phải sanh diệt chung theo vạn pháp. Nên Phật nói vạn pháp chẳng phải là nguyên thể của Ta, do lầm chấp nhận là Mình nên phải chịu Sanh Tử. Chớ vốn Ta nào có Sanh Tử.

Vạn Pháp nó vốn có sẵn một gốc của nó, nó dễ trở về Đồng Y hay phát sanh ra vạn pháp. Tỷ lệ nơi vạn pháp cứ từ một pháp nguyên thể liền diễn biến ra vạn pháp, khi hoàn tất trở lại một pháp, nên chi nói đến vạn pháp thời nó muôn trùng duyên khởi, muôn trùng vạn pháp, nó lại muôn trùng Tướng Pháp, nó lại muôn trùng vạn pháp tướng pháp, gọi đó là TÂM PHÁP cùng TƯỚNG PHÁP làm hai khối pháp sanh ra vạn vạn pháp. Bậc Giác Ngộ chung gồm hai khối trên làm một thì Tướng Pháp hay Tâm Pháp vốn nó trở về đồng y duy nhất là: TÂM.

Sau đây ví dụ: TƯỚNG PHÁP TÂM PHÁP Đồng Y biến ra Vạn Pháp:

Như: THÂN của nhân sinh hay chất ĐẤT, chất SẮT cùng là CÂY v.v... gọi là Tướng Pháp Đồng Y, từ nơi đồng y bình đẳng ấy trở thành vạn pháp tướng pháp do lầm theo vạn pháp tướng pháp để sống chẳng cơ bản phát sanh vạn lối, như: Nhân Thân Đồng Y thời Thân ai cũng thảy đều có ruột gan máu mủ y nhau, sống trong thế hệ năm tháng ngày giờ in nhau. Nhưng mỗi tư tưởng khác nhau, ý thức không y nhau, lòng tham muốn trái biệt nhau, đó gọi là vạn pháp.

Còn mỗi nguyên chất ĐẤT nguyên thể Tướng Pháp, chất Đất y nhau, nhưng tạo thành Chén Bát, Gạch Ngói toàn là những món dùng không ngoài Đất hằng hà sa số không thể nói hết đặng, những món đã biến, đã dụng thảy đều gọi là Vạn Pháp thị danh Tướng Phần. Chất SẮT, chất CÂY cũng như thế, chất Sắt tạo ra không biết bao nhiêu món dùng như: Xe cộ máy móc cùng các món khác vô kể, nhưng cũng không ngoài nguyên thể đồng y là SẮT. Đối với CÂY, cưa ra làm trở thành gỗ, ván, bàn, ghế, tủ, giường cùng các gia dụng không thể nói hết, nhưng không ngoài nguyên thể Tướng Pháp là CÂY.

Vạn Pháp Đồng Y bậc tu thường dùng trí tuệ chủ quán tỏ rõ tỉ mỉ mới nhận thấy nó linh động vi diệu vô kể. Nó có thể từ một Tâm Pháp biến diễn chẳng biết bao nhiêu ảo tưởng trở nên vạn pháp chấp nhận hư vọng mà phải lầm nhận tư tưởng của mình hay lý tưởng nơi mình là đúng đắn, để thọ chấp vạn pháp. Khi đã chấp nhận tư tưởng lòng tham muốn nhu cầu nơi chính mình để thành tựu, để tu tập, thời đương nhiên phải sống trong mơ ước lâu ngày thành Giới Hạn trọng lượng trở nên Cảnh Giới, lúc đã thành một cảnh giới thời nó vẫn diễn biến ra vạn pháp của cảnh giới đó làm cho bậc tu hành khó mà phân định mình đang ở trong vạn pháp hay đã làm Chủ Quyền vạn pháp?

Đối với chư Phật và chúng sanh hai bên có hai đặc điểm xa cách nhau muôn trùng vạn lối. Từ trên Chư Phật đã biết tỏ rõ tỉ mỉ vạn pháp chung gồm một pháp. Do đó mà từ trăm vạn cánh sen kết thành HOA SEN, Phật Điều Ngự trên các Pháp, còn chúng sanh sống trong vạn pháp, mỗi một Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới chỉ ở trong một Cánh Sen, thì làm sao biết đặng Chư Phật? Vì vậy nên chi chư Bồ Tát mới tu tập pháp môn Vạn Pháp Đồng Y, lúc có một Trí Tuệ căn bản thời Bồ Tát tự biết trong một sát na có thể tỏ thông bá thiên vạn kiếp, từng nguyên thể Tâm Pháp và Tướng Pháp phát sanh ra vạn pháp. Bồ Tát lại tự biết mỗi trong một kiếp Bồ Tát đang Hành Thâm Pháp Giới tỏ rõ bá thiên vạn kiếp trước sau đồng y không sai khác. Nên chi Bồ Tát nói: “Nơi hiện tại trong một kiếp ta có đầy đủ Nội Ngoại hai bên Cô, Dì, Chú, Bác, Anh Chị Em, ta đang tu tập hành thâm pháp giới, thời a tăng kỳ kiếp ta vẫn có Nội Ngoại hai bên Cô, Dì, Chú, Bác, Anh Chị Em vẫn hành thâm pháp giới in nhau không sai khác. Một ngày nơi ta, nó vẫn có: Sớm, Trưa, Chiều, Tối, chỉ vì ta vọng khởi phân biệt nên ta phải chịu đắng cay trong vạn pháp mà trôi giạt Sanh Tử Luân Hồi, lầm mê bỏ cả đồng y chạy theo vạn pháp.”

Vạn Pháp Đồng Y của Chư Phật đã tu, đã thành tựu Điều Ngự trên vạn pháp gọi là MINH VƯƠNG. Còn Chư Bồ Tát nương theo Chư Phật để tu tập thu nhiếp vạn pháp tỏ ngộ về một Pháp. Đối với bậc Tín Tâm đang nương theo Bồ Tát Hạnh đến Trí Tuệ cứu cánh, tỏ rõ vạn pháp đồng y mà Giác Ngộ, nên chi tu không chấp pháp mới phát Bồ Đề Tâm Nguyện cùng Mật Nguyện đặng thành tựu cúng dường Tam Thế Phật, khi đã cúng dường Tam Thế Phật một kiếp hiện tại thời Bá Thiên Vạn Kiếp cũng đã từng cúng dường Tam Thế Phật, bằng hiện tại chưa cúng dường thời quá khứ đến Vị Lai khó mà cúng dường, khó tận tường vạn pháp, phải cầu vạn pháp cho đặng Chánh Báo Thọ Báo thôi.

Nên Phật nói: “Nếu ta muốn biết tiền kiếp ta làm những sự việc gì, ta nên soi hiện tại sẽ biết được quá khứ. Bằng ta muốn biết sau này ta sẽ về đâu thời ta nên tinh tấn tu tập nung đúc Bất Thối Bồ Đề, chính là con đường ta đã dọn để mà về nơi đó. Bằng ta chưa chịu thi hành Hạnh Nguyện, chưa tu pháp lành, ta cứ cầu lạy van xin mong ước thời nơi van lạy mong ước kia nó không thể nào đem đến cho ta như ý nguyện.”

Đối với đa số bậc tu hành tín tâm cầu Đạo, cầu Tri Kiến Giải Thoát, nhưng lại thường tu bị thọ chấp vạn pháp của đường tu, cho mình là cao cống nơi Giáo Phẩm Tướng Pháp, vì vậy nên Thọ Ngã, chưa sở đắc vội chấp nhận sở đắc, chưa tận biết các pháp di chuyển vòng quanh trở về một pháp duy nhất nguyên thể. Thường công dụng Sắc Phần một là nhận lấy Ẩm Thực cho là sở đắc. Vì sao? Vì có một quan niệm nhịn ăn lìa được lòng tham muốn, sống với như nhiên để đến ngày mai vào Quả Vị Tối Thượng. Hai là học thuộc Kinh trong Bị Biết vội cho Tự Biết, lúc gặp phải bậc Tự Giác Chánh Giác, bậc ấy vẫn tùy thuận nơi Kinh để mở mối ngăn chấp, liền cho là biện luận xa lìa đặng thọ ngã riêng mình nơi Định Tưởng hay Thường Tưởng vạn pháp. Lại y Kinh theo lời Phật: Các pháp hư huyển, liền tránh xa không nói năng hành nguyện chi cả, vì sao? Vì nói năng Hành Nguyện sợ mắc miếu các pháp hư huyển, những bậc nói trên dù vô tình hay cố ý vẫn tu trong vạn pháp đặng chấp pháp chớ chẳng phải nương theo vạn pháp cốt tỏ ngộ vạn pháp đồng y giác ngộ.

Sự lầm mê bởi theo vạn pháp, nay tu hành cốt nương trong vạn pháp để khỏi lầm hết mê, đó là một câu Tâm Niệm mà bậc Đại Trí Đại Dũng thường nhắc nhở. Nhưng phần nhiều chỉ ưa thích luận bàn để tu trong ảo tưởng hơn là Thực Thể Chơn Tánh. Vì sao? Vì phân lượng ước đoán khác nhau, nên chi ở nơi Vọng nhiều hơn nơi Thực Tỏ để tu. Một câu chuyện dưới đây phương tiện chỉ nơi phân lượng ước đoán hư huyển của các bậc lầm suy chẳng đi vào thực thể đồng y trọn biết từ vạn pháp trở về Đồng Y, rồi từ Đồng Y phát sanh ra vạn pháp.

PHẨM PHƯƠNG TIỆN:

Có một Trưởng Giả ở trên khuôn vườn rộng rãi đầy đủ cây cảnh Cam Lê Mận Đào cùng trăm hoa đẹp đẽ, trong lâu đài đầy đủ tiện nghi sang cả, coi như đứng bậc nhất trong làng. Một hôm Trưởng Giả bảo thợ trong lâu đài đóng chiếc xe SONG MÃ sơn son thép vàng cực kỳ lộng lẫy, trong xe có ghế lót nhung, ngoài xe vẽ vời Rồng Phụng, lại đính các quả pha lê kim đính lóng lánh, trông rất cầu kỳ, chiếc xe ấy đang để ngay khuôn vườn, dưới giàn hoa đẹp.

Trong khi đó có một Nông Dân đi ngoài vườn cách xa hai ba trăm thước, nhìn chiếc xe ngỡ là con RỒNG kinh hãi, do đó lúc về đến làng kêu anh em nói những điều mình đã nhận thấy rằng:

“Nầy các anh em, chính mắt tôi đã nhìn thấy trong vườn của Trưởng Giả có một con RỒNG đang uốn mình lăn lộn trên các hàng hoa của Trưởng Giả, đôi mắt của nó long lanh sáng ngời, miệng của nó đỏ hà ra từng tia sáng. Các anh em nên cẩn thận.” Nông Dân nói ra thêm bớt làm cho tất cả kẻ nghe sinh lòng nghi sợ, cũng có một số tò mò đến vườn Trưởng Giả để xem, khi đến lại ở xa hơn nhìn về mặt bên trái chiếc xe thì chẳng thấy được con Rồng lại thấy con Phụng, lúc về làng đem thêm câu chuyện nói lên, làm cho tất cả dự đoán đủ điều sai biệt, sinh ra mơ ước càng tăng thêm quan trọng. Nhưng có một điểm, mỗi một kẻ nói ra thảy đều cho mình là đúng, lại cần làm cho mọi người tin theo lời mình. Trong khi đó nếu có một bậc đã thật biết đó chính là chiếc xe Song Mã của Trưởng Giả tô vẽ con Rồng và con Phụng thì chẳng ai tin bậc ấy nói đúng, vì sao? Vì tất cả đang sống theo tư tưởng ước mơ phân đoán của mình, nếu đem sự thật đơn giản trái với mộng ước thành thử khó tin biết đặng. Đến một ngày kia Trưởng Giả đem chiếc xe chạy khắp trong làng thời chừng ấy bao nhiêu phân lượng ước mơ thảy đều tiêu tan tất cả.

Đối với bậc đang tu vì lầm lẫn vạn pháp, từ nơi lầm lẫn chấp mê diễn biến Vô Minh, chẳng khác nào kẻ hãy còn đang mơ ước phân đoán, một khi nương vạn pháp cốt tỏ rõ vạn pháp diễn hành, đến ngày Chánh Giác thời vạn pháp vô minh liền tan dẹp, không khác với kẻ chưa thấy chiếc xe hãy còn mơ hồ nghi chấp, đến lúc được thấy chiếc xe Trưởng Giả thì nào còn nghi làm gì?

Bậc tu hành cầu Tri Kiến Giải Thoát thì nên tu đúng với tinh thần pháp môn Tri Kiến Giải Thoát, nếu tu chưa đúng còn Nghi là còn TU, còn nghi vẫn phải còn CHẤP phải tu, cùng đang tu.

Mỗi một pháp môn hoặc mỗi một đường lối tu thảy đều nằm trong phương tiện Cứu Cánh Giải Thoát, chớ chẳng phải pháp môn là Giải Thoát, nên chi: BỐ THÍ, TRÌ GIỚI, TINH TẤN, NHẪN NHỤC, TRÍ TUỆ, THIỀN ĐỊNH. Bậc tu chấp nhận, tu như thế chính là pháp môn Tri Kiến giải Thoát. Thì nó chẳng phải là pháp môn Giải Thoát mà chính nó là pháp: Bố Thí, Trì Giới, Tinh Tấn, Nhẫn Nhục, Trí Tuệ, Thiền Định thôi.

Bằng công nhận: BI CHÍ DŨNG, GIỚI ĐỊNH TUỆ hay TỨ NHIẾP PHÁP, LỤC BA LA MẬT ĐA, tu như thế là pháp môn Tri Kiến Giải Thoát, thì nó chẳng phải là pháp môn Tri Kiến Giải Thoát mà chính nó là PHÁP, Bi Chí Dũng, Giới Định Tuệ, Tứ Nhiếp Pháp, Lục Ba La Mật Đa thôi.

THẾ NÀO LÀ PHÁP MÔN GIẢI THOÁT?

TRÍ ĐỨC chung gồm PHẨM HẠNH chẳng sót. Bố Thí, Trì Giới, Tinh Tấn, Nhẫn Nhục, Trí Tuệ, Thiền Định, Lục Ba La Mật Đa, Tứ Nhiếp Pháp, Bát Nhã Ba La Mật Đa. Tu cầu lấy Pháp Không Chấp, trọn pháp Thường Chân, tỏ rõ vạn pháp Đồng Y Nhất Tướng đó chính là pháp môn Giải Thoát.

Cũng như bậc đóng chiếc GHE phải mua sắm cây ván cùng dụng cụ không thiếu sót làm hoàn tất mới gọi là CHIẾC GHE. Bằng có mỗi cái BE của ghe thì đó là Be Ghe chớ chưa phải là Chiếc Ghe. Lại nữa: Toàn Thân của nhân sinh mới gọi là CON NGƯỜI, nếu có Tóc thì chính nó là Tóc chớ chưa phải là Con Người. Bằng Tay Chân Tai Mũi là Tay Chân Tai Mũi chớ chưa hẳn là Con Người. Đối với pháp môn không chấp toàn diện không thiếu, tỏ thông rốt ráo, chính là Pháp Môn Đồng Y Giải Thoát vậy./-

TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN

17. THỰC TƯỚNG VÔ TƯỚNG

THỰC TƯỚNG và VÔ TƯỚNG chính là một pháp tương đối để các bậc tu hành giải quyết lấy một bên hoặc chung gồm mà tỏ ngộ do đó nên chi có bậc nói ra thì kẻ nghe không vừa với mức độ tu tập của mình, hoặc giả chẳng vừa với sự ngăn chấp thành thử khó nghe để lãnh hội đặng, duy chỉ dùng công năng tu hành mới tỏ biết mà thôi. Pháp Thực Tướng Vô Tướng nó cũng là một trong các pháp phân định CÓ KHÔNG THẬT GIẢ vì vậy phải tùy theo công năng sở đắc. Khi đã có bậc Sở Đắc toàn giác đương nhiên liền Tự Giác Thực Tướng Vô Tướng dù cho có nghe hoặc chưa nghe vẫn thấu đạt được Thực Tướng Vô Tướng, Có cùng Không, Chân và Giả gọi pháp môn nầy là Pháp Môn Tam Muội

Bậc đã Sở Đắc đem ra diễn nói ẤN CHỨNG làm một điểm tựa cho Đạo Chúng để sau nầy khỏi lầm lẫn thọ chấp một bên CÓ hoặc KHÔNG, THỰC hay VÔ, mà sai lạc Chân Lý bị Chân Không Phi Phi Tưởng vậy.

Pháp Thực Tướng Vô Tướng với con đường tu hành TRUNG ĐẠO, chẳng khác mấy trên ngã ba đường của các bậc tu hành, làm cho các bậc tu hành phân vân, không biết đi con đường nào cho đúng với tinh thần Chân Lý để kết quả Tri Kiến Giải Thoát. Vì vậy rất nhiều bậc đang thời kỳ tu tập chưa rốt ráo tỏ thông gặp phải khi chấp Thực Tướng, lúc nhận Vô Tướng để làm mức tiến bộ tìm hiểu đến tận biết mà Giác Ngộ. Bậc như thế gọi là bậc đã tu trong con đường Trung Đạo.

Thứ nhất là đương thời nầy, ít dùng Công Năng hơn Lý Trí, ít thi hành Hạnh Nguyện để sát thật tự giác hơn là đem lòng tham vọng tưởng làm mục tiêu Tu Chứng cho mình, nên chi thường vấp phải có một bên để thọ chấp cố định về phần mình đã sở đắc, vì vậy cho nên thường hay tìm biện giải để bảo trì nơi thủ chấp, do đó nên thường tu tập một thời gian đâm ra Bất Tín Đạo Pháp Chân Lý trở thành nhiều xấu xa, nhiều đố tật gọi là tự tại vô ngại, nhưng ngược lại thâm tâm vẫn mơ màng không lối thoát.

Trong lúc bậc đã cố chấp quyết định tất cả các Pháp Tướng thảy đều chân thật Thực Tướng, liền nơi viễn cảnh tâm thức của bậc ấy nhận thấy in tuồng đúng với mục tiêu chân thật nơi mình, để công nhận Thực Tướng.

Có bậc lại chán chê nơi thực thể vì nhìn các pháp di chuyển không ngừng, huyển hóa chẳng thực, vì vậy gia công tu tập hiểu biết vạn pháp do Tâm Sanh, phân biệt bởi Tâm Thức, nương pháp để tỏ pháp mà sở đắc Chân Không, liền chấp KHÔNG an trụ, lấy pháp Bình Đẳng của Như Lai Pháp làm mục tiêu đứng nơi Vô Tướng thọ ngã cho đó chính, nên chi gia công biện giải quán Chân Không để tự tại vô ngại, vì vậy chỉ đứng có một bên Vô Tướng.

Bậc thứ ba lại đứng trung gian vì phân vân trong hai lối THỰC và VÔ, CÓ cùng KHÔNG chưa quyết đoán, bậc nầy thường hòa giải đọc tụng câu: NÓ CŨNG CÓ, MÀ NÓ CŨNG KHÔNG, hoặc câu: NÓ CŨNG THỰC TƯỚNG, MÀ NÓ CŨNG VÔ TƯỚNG, thật ra cũng chưa tỏ rõ đặng Chân Giác sự ứng dụng tác dụng rành mạch của hai pháp Thực Vô ra thế nào cả. Nếu bậc ấy tinh tiến, kiên dũng cho đầy đủ Hạnh Nguyện để Tự Giác, Giác Tha thời một thời gian liền ngộ, gọi là bậc biết tu trên con đường TRUNG ĐẠO vậy.

Ba lối giảng giải trên, trong bài Thực Tướng Vô Tướng và con đường Trung Đạo, phần nhiều các bậc tu hành đến ngã ba nầy khó tỏ ngộ. Nếu gặp đặng Ông Ma Ha Ca Diếp đã sở đắc THỰC TƯỚNG VÔ TƯỚNG TAM MUỘI PHÁP MÔN mà đem ra giảng nói cũng chưa hẳn mấy ai Tin Vâng thọ lãnh Bảo Pháp này được, vì sao? Vì Tam Muội Pháp Môn, duy chỉ có đầy đủ công năng Tin Vâng Chánh Tín mới Sở Đắc, còn kỳ dư thảy đều thọ lãnh trên Ấn Chứng mà tu trì cho hết nghi chấp phân vân trong lý trí trên Hạnh Nguyện, chừng ấy mới quyết định mà toại nguyện.

Sau đây nói bậc đã chấp nhận Thực Tướng là đúng thời bậc ấy tìm đủ phương thức hiểu biết lý giải để củng cố nơi Tu Chứng của mình cho đúng với tinh thần chí nguyện. Vì vậy nếu có kẻ đến hỏi: “PHÁP NÓ CÓ THỰC TƯỚNG CHĂNG?”

Bậc ấy trả lời: “Chính pháp tướng nó Thực Tướng, không sai khác, vì sao? Vì từ một mảnh Lông Cừu đến Vũ Trụ, Thiên, Nhân, A Tu La, Súc Sanh, Ngạ Quỉ cùng Địa Ngục, kể cả trùm khắp bao la Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới, Rồng Người đều là Thực Tướng, hoặc từ một Thân đến trăm Thân, từ một Đại đến Lục Đại, từ một lóng tay, ngón tay cả bàn tay đều Thực Tướng.

Chớ nên nói đó là sai, chớ nên cho đó là khác, nếu nói hay nghĩ sai khác chính là Vọng, là Điên Đảo mà cũng chính mình tự phản lấy mình. Vì sao? Vì Thực Tướng là duy nhất gọi là Nhất Tướng, khi thông đạt thì Tướng ấy nó như vậy gọi nó là Như Tướng. Bằng có một quan niệm nói nó là Vô Tướng thì bị phản với Tướng Phật, bị phá với Quốc Độ làm cho tổn thương Phật Quốc. Dù cho các ông đưa ngón tay để chỉ một món nào thì ngón tay kia có chân thật để làm cho kẻ khác được sự hiểu biết tận tường có phải một tướng chỉ chân thật chăng?”

Còn phần dưới đây diễn giải bậc đã chấp nhận VÔ TƯỚNG, bậc ấy tìm đủ lý giải để bác bỏ Thực Tướng, để củng cố nơi Tu Chứng của mình cho đúng với tinh thần chí nguyện. Vì vậy có kẻ đến hỏi: “PHÁP NÓ CÓ PHẢI LÀ VÔ TƯỚNG CHĂNG?”

Bậc ấy trả lời: “Đúng nó như vậy, nó chính là Vô Tướng không sai khác, vì sao? Vì từ một mảnh Lông Cừu đến Vũ Trụ hay Thiên, Nhân, A Tu La, Ngạ Quỉ, Súc Sanh đến Địa Ngục trùm khắp Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới thảy đều nằm nơi Nguyên Thể Vô Tướng. Các ông thử nghĩ Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới đến Thiên Nhân cùng ba đường sáu cõi hay một mảnh Lông Cừu do nơi chấp nhận mà có? Hay không chấp nhận mà có? Nếu Chấp Nhận là tự tạo Giả Tưởng nằm nơi Giả Tưởng thọ chấp Thực Tướng chính là tự đưa mình trong Đảo Vọng sai biệt nguyên thể của Vô Tướng.

Còn nói về từ một thân đến trăm thân, từ một Đại đến Lục Đại, từ một lóng tay đến ngón tay hay bàn tay nó thảy đều là Vô Tướng. Vì sao? Vì nó bị gán nơi Danh Giả để nói lên nó là ngón tay, lóng tay hay bàn tay, thử nghĩ xem trên Văn Tự danh giả nó có thực thể chăng? Các ông chớ nên cho Vô Tướng là sai, nếu cho nó là sai thì chính mình tự phản lấy mình.

Vô Tướng nó chính là một nguyên thể hàm chứa, do đó nên Vô Tướng nó chỉ có một không hai, nếu nói hay thêm vào để cho nó gánh chịu Thực Tướng thì lại càng làm cho nó mất tinh hoa của nó thôi. Nếu nói nó Thực Tướng để minh xác thì thử hỏi cái chi là Tướng Phật ư? Tóc là Tướng Phật ư? Thân là Tướng Phật ư? Bằng nói Thực Tướng xây dựng Quốc Độ tạo thành Phật Quốc, thì tất cả đối với Phật không biên giới trùm khắp bình đẳng chẳng chủ trị thì làm sao đặt Thực Tướng để vào một nơi chốn như Tiên Thần đâu đặng?”

So trên để rõ biết trong hai bậc, đứng vào hai lối nói lên những Chân Pháp, thì đủ biết rằng pháp môn Thực Tướng và Vô Tướng chính là một pháp môn linh động tối diệu thậm thâm có thậm thâm như thế nên có bậc đứng nơi Trung Đạo tu tập KHÔNG BỎ CŨNG CHẲNG LẤY mà giác ngộ song pháp vẹn toàn, chừng giác ngộ thời dù cho Thực Tướng hay Vô Tướng thảy đều là Chánh Giác. Nếu chưa Giác thì dù cho Thực hay Vô thảy đều là vướng mắc nghi ngờ phân vân khó giải vậy.

Thực Tướng Vô Tướng chính là một then chốt giải mê lầm, đối với những bậc biết tu hay biết tìm Chơn Tánh mà tu trong con đường tự giác hạnh nguyện để giác tha mà tỏ tánh không hai, đó chính là pháp môn quân bình TRUNG ĐẠO soi khắp tránh nặng nhẹ hai bên, được viên dung tự tại mà rốt ráo viên thông. Khi bậc tu hành sở đắc Thực Tướng Vô Tướng đặng rồi thời hai pháp CÓ KHÔNG, GIÁC MÊ, MÊ GIÁC thảy đều biết hết.

Nói về Phật Đạo, nói đến Giáo Lý Nhất Tôn cốt yếu vạch ra để chỉ bày các bậc tu hành phá mê chấp lầm ngăn vì chưa biết, lúc chưa biết gọi là mê lầm, khi đã biết thời gọi là Giác Ngộ chớ chẳng chi là Giác Ngộ. Nơi Giác Ngộ nó vẫn sẵn sàng, đạo Vô Thượng nó vốn an nhiên nơi đó, chỉ do tại bậc tu hành chưa biết nên chẳng dùng đến nó đặng, lúc đã biết thì dùng đặng, vốn lẽ đương nhiên.

Đối với các pháp khi lầm mê chưa biết cách ứng dụng, tác dụng hay xử dụng thì dễ bị nó quay cuồng đưa vào con đường Sanh Tử, Được Mất, Có Không, Thực Tướng cùng Vô Tướng. Nên phải nghi ngờ ngăn chấp, do đó nên phải lần theo các pháp tu học tỏ rõ tỉ mỉ thật biết ứng dụng, tác dụng và sử dụng thời đương nhiên gọi là Điều Ngự các pháp, lúc đã điều ngự thời giải quyết sanh tử, giải quyết vạn pháp gọi là PHẬT chớ chẳng có chi là Phật.

Thật ra các pháp không bao giờ bắt ép cho tất cả lầm mê vì Pháp. Các pháp nó cũng chẳng làm sao cho các bậc Giác Ngộ cả, duy chỉ có các bậc tự mê để đến ngày nay tu hành rồi Tự Giác, vì vậy nên lần lượt giải mê chấp, lần lượt Tròn Đạo cốt đem đến CHÂN THIỆN MỸ hoàn lai.

TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN

16. CHÁNH TÍN

CHÁNH TÍN là nơi TIN duy nhất, vì sao? Vì tỏ thông tận tường vạn pháp chẳng còn lấy một NGHI, khi đã hết Nghi thì nào có Chấp, gọi là sạch Nghi Chấp, Chánh Tín vậy.

Nếu đứng vào sự chung gồm để quán xuyến hay dùng Như Lai Pháp bình đẳng tự biết thì tất cả chung gồm ai ai cũng có sẵn một Đức Tin, đức tin không phân biệt tỏ rõ gọi đó là Bất Nhị.

Bằng nói về mỗi một cá tánh Tự Ngã, Nhân Ngã, Bản Ngã thứ lớp tuần tự để phân tách thì chẳng mấy ai hoàn tất được gọi là Chánh Tín. Vì sao? Vì mỗi một NGÃ đang bị trong vòng Thọ Chấp từ nơi Cá Tánh, Tự Ngã, Nhân Ngã, Bản Ngã để mà Tin riêng rẽ thì làm sao trọn Tin vào nơi Chánh Tín?

Cũng như:Thợ bánh làm cho thành một chiếc Bánh, thì phải chung gồm có Bột, Đường, Trứng và Lửa mới trở thành, bằng để riêng bột chỉ gọi là bột chớ chẳng phải là bánh, nếu đường và trứng thì chỉ đường và trứng, chớ chẳng thể nào nói nó là bánh. Đối với Chánh Tín thật hoàn toàn Giác Ngộ từ trên đến dưới, từ trong ra ngoài, hoàn mỹ Chân Thiện mới Chánh Tín, ngoài ra chỉ là bậc nương theo Chánh Tín để tu trì mà vào Chánh Tín.

Đối với Bậc CHÁNH TÍN quán xét thường dùng THA TÂM THÔNG để biết Tâm của chúng sanh thảy đều có một tâm Tin Phật chỉ vì nơi Tin chưa đúng bởi Nghiệp Lậu Trí Tuệ không đồng nên có rất nhiều thứ lớp để mà Tin. Do đó nên chi thường lầm đặt Đức Tin Chánh Tín vào nơi Mê Tín, Cuồng Tín mà có Loạn Tín.

Chánh Tín nó rất cần thiết cho tất cả mọi từng lớp tu tập, từ Thế Gian đến Xuất Thế Gian để tu đúng, đi đúng. Đi đúng với tinh thần, với chủ đích trở thành PHẬT THÁNH TĂNG.

Nói đến niềm TIN TƯỞNG thì ai ai cũng sẵn có, có niềm tin mới có lẽ sống của Nhân Sinh. Nếu không có niềm Tin để tạo thành Đức Tin thì kẻ ấy coi như mất lẽ sống gọi là tuyệt vọng, vì vậy nên chi từ Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới Hoàn Cầu Vũ Trụ bao la chỉ nương theo niềm Tin để tin trên muôn ngàn để mà sống. Dù cho sự Tin nơi Tin không thiết thực chăng cũng giúp cho kẻ đã nuôi cái Tin để mà Tin, cũng như nuôi cái Sống để mà Sống, do đó trên thế giới nầy rất nhiều lối tin khác biệt, nhiều Tôn Giáo lập ra để nuôi Đức Tin tức là nuôi LẼ SỐNG triển vọng ngày mai vậy.

Đối với Đạo Phật, khi còn Đức Thế Tôn tại thế, Ngài mới dùng niềm Tin sẵn có đặng nuôi cho Tăng Chúng trở thành một Đức Tin, Ngài diễn nói Giáo Lý cốt dạy cho tất cả trọn TIN trở thành Chánh Tín đúng với mục tiêu Chánh Giác của Ngài, vì thế nên chi phá những mê chấp điên loạn cuồng tín của các Giới Sanh trở về CHÂN TÍN. Ngài thường nói: “Chúng sanh vì lầm lại nuôi cái lầm của mình thọ chấp trở nên Pháp Giới, Cảnh Giới phải chịu lạc loài nơi Sanh Tử. Nếu chúng sanh đặt một niềm Tin đến Đức Tin đúng với Pháp Môn Tinh Thần nơi TA thì chúng sanh thảy đều Giác Ngộ như TA.”

Qua các đời sau chư TỔ biết đích tỏ rõ mục tiêu tinh thần Phật Đạo cốt yếu chỉ dạy cho tất cả Tín Đồ Đạo Chúng tu đúng Chánh Tín vì chúng sanh cuồng tín, đúng với tinh thần Chánh Giác vì chúng sanh mê lầm đặt niềm tin không đúng nên lẩn quẩn có tin mà chẳng kết quả, bị theo cuồng vọng, theo cái thích muốn của mình để mà tu. Do đó nên phải có một Pháp Môn một Chương Trình TIN VÂNG KÍNH huy hoàng mới mong thành tựu.

Kể trong Tam Tạng Kinh Điển chung qui chỉ dạy cho tất cả từ nơi mê tín cầu Đạo về chốn Chánh Tín thành PHẬT, giảng nói tất cả các đố tật ngăn chấp của sự mê lầm mà chúng sanh đặt nơi tin không đúng để thọ chấp, làm cho con đường Chánh Tín ngăn ngại trí tuệ biệt phân thối chuyển phải xa vời Lý Trí, xa cách đường tu, ngỡ là mình đã Giác Ngộ thành Phật thật là nguy hại.

Lại có nhiều kẻ chỉ vì cuồng tín nơi mình mà thọ ngã cho là Chánh Tín. Vì mê tín của mình cho là chánh tín để chấp nhận do đó mà có LÝ CHƯỚNG đến SỰ CHƯỚNG khó tu.

Nên chi Đức Thế Tôn căn dặn: “Các ông cũng nên ghi nhớ. Trong thời Mạt Pháp chúng sanh căn cơ thấp kém vì thọ ngã, bởi loạn lạc sa đọa trong Lý Trí Bản Ngã nên thường phát sanh Ngạo Mạn Tăng Thượng, chưa Chứng vội chấp nhận sự Tu Chứng của mình, chưa Đắc vội cho mình Sở Đắc, chạy theo cuồng tín sở vọng hơn là tu trì Chánh Tín Bất Nhị, do đó nên thọ chủng tánh vào ba đường Ác nhiều hơn là ĐỨC TIN căn bản Chánh Tín TIN VÂNG làm cho LÝ CHƯỚNG đến SỰ CHƯỚNG khó nhận lãnh lời Di Truyền của Ta để lại. Sau các ông cũng nên thịnh trọng lời nói, thịnh trọng Bảo Pháp phải trao cho đúng với Đức Tin, đúng với sự Tin Vâng của chúng sanh làm cho chúng sanh khỏi đoạn duyên Phật, vì sao vậy? Vì chính họ là NỒI ĐẤT MỎNG phải tùy theo họ để giúp họ được thọ trì Chánh Tín mà Tri Kiến Giải Thoát.”

Nói đến Chánh Tín phần trên, nói về tinh thần Đạo Phật cốt yếu dạy cho Tín Chúng đi vào Đức Tin thọ lãnh BẢO PHÁP mà Giác Ngộ. Cũng chính Phật Đạo ra đời chỉ dạy cho chúng sanh có một CHỮ TIN để toàn giác. Bậc tu hành nên ghi nhớ căn bản, một trọng yếu nhất của Đạo Phật để thành tựu Công Đức Cúng Dường mà chư Phật đã đem đến.

Nói đến các bậc tu hành rất có nhiều bậc Tin Phật, lại rất ít bậc nhận lấy Tự Giác gọi là TỰ TÁNH TỎ TÁNH làm nơi Tin để tin theo lời Phật dạy. Cũng rất hiếm hoi bậc thi hành Hạnh Nguyện cầu Tự Giác, ở nơi Tự giác cầu Chánh Giác hoàn mỹ Tin Phật mà tu. Vì vậy phải tuần tự nghe Giáo Lý phá mê lầm lìa Ngã và Sở Ngã, cùng nương theo các Pháp Môn tu tập. Cứ mỗi Pháp Môn tu như vậy thì trong pháp môn đó đã có sẵn niềm Tin và Đức Tin của bậc Tin, đặng Tu Chứng trong Pháp Môn đó, tu được nhiều Pháp Môn chừng nào tỏ ngộ pháp môn chừng ấy mới rốt ráo trọn Giác Chánh Tín.

Ví như: Bậc tu về Mật Tôn, khi sở đắc Mật Tôn tu chứng Mật Tôn, thì Chánh Giác Mật Tôn chớ chưa phải là Vô Thượng Chánh Giác mà trọn vào Chánh Tín Đức Phật.

Bằng có bậc tu về Hiển Giáo, khi sở đắc Chân Lý của Hiển Giáo, thì Chánh Tín và Chánh Giác của Hiển Giáo chớ chưa hẳn là Vô Thượng Chánh Giác Chánh Tín trọn vẹn.

Nếu có bậc tu về Thiền Tôn, khi sở đắc Thiền Tôn thì Chánh Tín nơi Thiền Tôn hay Chánh Giác của Thiền Tôn chớ chưa được hoàn giác Chánh Giác Vô Thượng.

Cứ như thế nên chi lúc Đức Bổn Sư Ngài toàn giác Vô Thượng chỉ dạy cho Tăng Chúng tu hành, bậc tu Sở Đắc Chánh Giác từng Tông, ngày hôm nay mới có 12 Tông của chư Bồ Tát chỉ dạy lưu lại đến bây giờ. Đối với bậc tu hành hiểu biết nên thịnh trọng chớ vội Thọ Chấp, cho mình là Chánh Giác Vô Thượng để chỉ trích các Tông của các bậc đang tu hoặc Tu Chứng nơi Tông họ.

Còn các bậc sơ khởi phát Bồ Đề Tâm cũng là một bước tu đầu tiên tin Phật đáng kể phải thi hành BI CHÍ DŨNG, GIỚI ĐỊNH TUỆ cùng LỤC BA LA, đó chính là mỗi dụng cụ để lần tu đến nơi Chánh Tín, cũng chính là dụng cụ làm cho các bậc tu hành cổi giải tất cả các nghiệp ngăn chấp, đem lại sự hiểu biết Trí Tuệ và Đạo Hạnh được hoàn mỹ vậy.

So như trên đủ rõ, mỗi một bậc Tu Chứng một Tông, từ phàm phu trở thành Bồ Tát cùng thảy đều đạt đến Chân Lý Giác Ngộ, một Chánh Tín huy hoàng của Bồ Tát trụ chớ chưa hẳn Chánh Giác Vô Thượng của chư Phật, đủ biết là Chánh Tín tận tường hoàn mỹ của chư Phật rất khó nói, khó nghĩ bàn đặng. Vì lẽ ấy nên chư Bồ Tát phải thi hành tu tập nơi Hạnh Nguyện thề đoạt đến Vô Thượng Chánh Giác, các bậc Bồ Tát phải tu từ Tông nầy tu đến Tông khác cho đầy đủ mới thành Phật, gọi là NHẤT SANH BỔN XỨ.

Tập GIÁO LÝ TRÊN CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT nầy nó nói lên cũng không ngoài khuyên bậc tu chớ vội Thọ Chấp, phải tận tường mục tiêu giải mê chấp, cùng các quan niệm lầm lẫn năng phân để tỏ ngộ những gì cao quý của chư Phật để lại, của chư Bồ Tát đang thi hành nêu lên ngày nay chúng ta hiểu biết để giải thoát sanh tử.

Đối với Chánh Tín chính là một tuyệt đích Tối Thượng nên Phật thường nói: “TIN PHẬT LIỀN THÀNH PHẬT” hoặc “NIỆM MỘT CÂU LIỀN THÀNH PHẬT.” Khi mà Đức Phật đã bước vào Chánh Tín thành Phật khỏi niệm vẫn được thành Phật. Chỉ vì thương chúng sanh nên nói lên làm cho chúng sanh lần Niệm, lần Tin đặng vào Chánh Tín.

Chẳng khác nào người Cha nọ thương con mới bảo con rằng: “Con nên đi học để được làm Quan, đứa con vẫn nuôi một tin tưởng là mình đi học được làm Quan, khi thành tài vẫn đặng làm Quan,” đối với con đường thi hành Chánh Tín thành Phật cũng vậy.

Con đường tu hành đến Chánh Tín chính là một con đường kỳ diệu, đối với bậc đã bước qua chưa vội thọ chấp, kỳ dư kẻ đã chấp hoặc đang chấp thì nào có ngờ mình đã chấp hay đang bị chấp.

Nên chi thời quá khứ có một bậc đến thưa thỉnh cùng Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, con đã từng Tọa Thiền gặp Phật mà cũng đã từng nghe Phật nói. Lại có rất nhiều bậc đã từng mơ tưởng chiêm bao gặp Phật vẫn từng nghe Phật nói, thì có phải chính là đức Phật? Hay không phải Đức Phật? Con đến đây cúi nhờ Đức Chí Tôn giải nỗi thắc mắc cho con nhờ,” thưa thỉnh xong đứng lại một bên.

Lúc bấy giờ Đức Phật mới nói: "Ông cũng nên biết kẻ phàm phu gặp đặng Phật trong mơ tưởng thường tưởng, đồng thời nghe Phật diễn nói, đó chính là Phật, nhưng Phật với phàm phu. Bằng Thinh Văn, Duyên Giác hay Bích Chi hoặc A La Hán trong cơn Tọa Thiền hay những cuộc di chuyển thần thức mà đã gặp Phật diễn nói thời chính là Phật, Phật với bậc Thinh Văn, Duyên Giác, Bích Chi và A La Hán thôi.

Nếu bậc Sơ Trụ đến bậc Bất Thối Bồ Tát trong Chánh Định, trong Tưởng Định mà đặng gặp Phật, được nghe lời Phật diễn nói rành mạch tỉ mỉ, đó cũng chính là Phật, nhưng Phật với Bồ Tát Sơ Trụ Bất Thối thôi. Khi thành Phật gặp Phật mới là PHẬT.”

Theo lời thưa thỉnh trên, đủ hiểu biết từ một niềm Tin đến Đức Tin cùng sự Tin Vâng cấu kết trong công năng tu tập đầy đủ tất cả từng lớp không thiếu sót mới thành tựu đặng Chánh Tín đạt đến Chánh Giác. SỰ TIN nó rất cần đến Công Đức và Trí Tuệ, nó cũng cần thiết từ tinh thần đến vật chất. Vật chất công năng nó tiêu biểu cho tinh thần để thành tựu Đức Tin đến Chánh Tín. Trên con đường tu Phật để Tri Kiến Giải Thoát chẳng phải công dụng Lý Trí không mà đặng đầy đủ, nó cũng không phải cần dùng Công Năng không để tạo thành, đúng ra nó rất cần đến Công Năng và Lý Trí đầy đủ mới thành tựu tu đặng đến kết quả Chánh Tín vậy.

CHÁNH TÍN chính là một pháp tất cả đều phải tu hành trong căn bản thiết thực mà Chư Bồ Tát đang Hạnh Nguyện, Chư PHẬT đã Hạnh Nguyện Diệu Dụng xong. Các chư Tăng cầu báo phải làm để cầu Tri Kiến Giải Thoát./-

TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN

15. PHÁP TÁNH

PHÁP TÁNH vốn viên dung bình đẳng chỉ có bậc toàn giác mới biết đặng. Bậc ấy thật biết thể tánh di chuyển của Pháp Tánh, biết sự tùy thuận cung đốn theo lớp lang mong cầu sở chấp sở nguyện theo trình độ nơi Tu Chứng hay chưa chứng mà cung ứng đúng với sở cầu không sai. Lại biết từ phàm phu đến Thánh Tăng cùng các cõi như: TỊNH ĐỘ QUỐC ĐỘ cảnh giới Tiên Thần Sắc pháp, thảy đều thành tựu đáp ứng Lý Sự tương sanh hiện diện. Bậc toàn giác còn biết, biết hơn thế nữa, tận tường, tường tận tỉ mỉ nên làm vua các pháp.

Còn đối với bậc chưa giác hoặc chưa biết rốt ráo tận tường thể tánh Pháp Tánh hay chân lý mơ màng cầu mong hoàn mỹ trong tình trạng Thường Tưởng Định Tưởng thời nhìn nhận Pháp Tánh BẤT BÌNH ĐẲNG. Do nơi bất bình đẳng nên có thứ lớp cấp bậc Tu Chứng khác nhau, sự hiểu biết từng phần, sự mong cầu cao thấp, sự Chánh Báo nhiều nơi, sự Chịu Báo lắm chỗ, thành ra các Tướng Pháp khác biệt như TỊNH ĐỘ QUỐC ĐỘ HỮU VÔ NIẾT BÀN CẢNH GIỚI không ngoài pháp tánh cung ứng.

Pháp Tánh sẵn bình đẳng, chẳng khác nào: Cây bút và phẩm màu của anh thợ vẽ, hay cây viết và mực của học trò, tùy tài năng anh thợ vẽ, tùy học lực của học trò, đồng ứng khả năng thành Bức Tranh đẹp hay không đẹp, đồng theo trình độ học lực văn hóa mà đáp ứng không sai. Đối với cây viết, ngòi bút nó không phân biệt kẻ cầm bút viết, nó chẳng giai cấp thứ bậc, nó sẵn sàng nằm trong tay tất cả muốn cầm lấy nó, nó liền đồng ứng, đồng cung đốn theo năng lực, theo sở cầu, theo ý chí đúng tinh thần của kẻ cầm nó, pháp tánh cũng vậy.

Pháp Tánh sẵn sàng để các bậc điều khiển tận hưởng. Nhưng ngược lại, bị lầm phải tự vào pháp tánh van xin pháp tánh ban phước lành, ban cảnh giới, ban địa vị, ban nơi ăn chốn ở cùng các hoàn cảnh thảy đều van xin cả. Đó chính là một sự lầm mê vô tận vậy.

Cũng như: Ngọn bút ta có quyền vẽ vời, vẽ xong để mà xem, trái lại tranh vẽ vào tranh mà cầu báo, cây viết ta có quyền viết ra các văn tự ta lại chấp tự văn cầu lấy an lành muôn thuở. Pháp Tánh sẵn sàng cung đốn ta, khi ta lầm được giác ngộ, miễn ta biết dùng lại chẳng biết để dùng, chỉ chịu lấy Thứ Vị thấp cao so tính lầm mê trong vạn pháp chịu cảnh TÂM SANH tạo nên TAM GIỚI, nếu bậc tu hành biết suy ngẫm liền nhận thấy:

TỘI PHÚC do mình gây.
SƯỚNG KHỔ Tâm ta tạo.
THAM CẦU là cực khổ.
Chẳng tham đẹp hơn ai.
Mê lầm là chưa biết.
Tận biết rõ muôn phương.
Các pháp vốn sẵn thường.
CÓ KHÔNG đồng Tánh Pháp.

Pháp Tánh vốn tùy thuận viên dung bình đẳng thanh thô tế nhị, tùy theo khởi hay không khởi vẫn giúp đỡ đầy đủ tương sanh tướng pháp, tùy theo nơi Tịnh, Bất Tịnh của mong cầu liền hưởng ứng vẹn vừa không sai biệt, làm cho kẻ khởi vọng ngỡ mình Giác Ngộ hay toại nguyện đúng đắn chấp nhận do đáp ứng vi diệu khéo léo đối với bậc đã lầm lại thường lầm vì vậy mà Nghe, Thấy, Biết chẳng đồng nhau trở nên Nghiệp Thức trình độ giai cấp bị ràng buộc nơi Nghe, cái Thấy đến cái Biết bất bình đẳng trăm ngàn riêng chịu biệt lập, vì vậy nên có sự tranh giành hơn thua được mất mà phải có Tu Chứng nhiều thứ bậc lần đến cái Nghe-Thấy-Biết chung cùng trùm khắp toàn giác.

Khi đã trót vướng vào pháp tánh, cũng như đã mắc trong bức tranh của ta tự tạo tự vào thì cái Nghe-Thấy-Biết nó không ngoài SẮC PHÁP TÂM PHÁP ý chí cùng tướng hình gọi là TƯỚNG PHÁP, tướng pháp tiêu biểu cho pháp tánh, cũng như ý chí màu sắc vẽ thành bức tranh.

Trong lúc tu hành thì bậc tu cốt tỏ vạn pháp hành thâm pháp giới đặng thật tỏ rõ kẻ mê lầm vào vạn pháp lầm vào những bức tranh, miễn sao bậc tu Tự Giác lần lượt đến Chánh Giác.

Phật biết tận tường tỏ rõ đối với chúng sanh hay các bậc tu hành trót lầm lẫn pháp tánh, nên dù mong muốn hoặc chẳng mong muốn thảy đều bị pháp tánh nên chi lẽ sống không ngoài SẮC, THINH, HƯƠNG, VỊ, XÚC PHÁP. Khi mong thoát trần lao phải tu tập lại công dụng không ngoài Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc Pháp để tỏ biết, khỏi lầm là Giác Ngộ chớ chẳng chi là Giác Ngộ.

Bằng lìa pháp để tu hoặc diệt Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc Pháp mong cầu thoát Trần Lao chẳng bao giờ Chánh Giác, chỉ cầu báo Nhân Thiên đó chính là Huấn Từ của Chư Phật vậy.

Nên chi chư Bồ Tát mới Hạnh Nguyện độ sanh cốt vào các pháp tỏ rõ sự di chuyển cung đốn của Pháp Tánh ra sao, đi lại thế nào, kẻ nằm trong pháp chấp bị vướng sanh cảnh giới vuông tròn lớn nhỏ ra sao, bậc không chấp bị chấp không thế nào, mà thông đạt vạn pháp trọn giác thành Phật vậy.

Pháp Tánh bậc đã đoạt đến thì tỏ rõ thành Chánh Giác. Kẻ phàm phu chìm đắm trong pháp tánh phải chịu sanh tử luân hồi. Bậc Bồ Tát phát nguyện Bi, Hỷ, Xả để lần đến Bát Nhã Trí thật tỏ pháp tánh. Bậc Tiên Thần tu luyện trong pháp tánh cầu Thánh Quả để tận hưởng pháp tánh nhất thời, từ nơi suốt thông thật giác đến thọ chấp nửa chừng chỉ vì chưa biết tác dụng pháp tánh, chỉ còn nghiệp lậu tập khí sanh tử mà chấp nhận pháp tánh thành thử có thứ bậc tu chứng, sai lạc vào Tiên Thần tu luyện nhưng nào có hay biết ngỡ mình đã sở đắc chân lý tận cùng.

Pháp Tánh nó tùy thuận theo duyên khởi vọng ước tư tưởng suy nghĩ mà thành tựu, đối với bậc tu hành chưa biết rõ thường bị chấp nhận, do đó mà đa số tu theo ý muốn chớ chẳng chịu phá chấp khi lầm lẫn để tự tánh tỏ tánh.

Đối với Pháp Tánh không thể dùng văn tự hay lời nói mà diễn giải thể tánh của pháp tánh được, duy chỉ có giác ngộ mới khỏi lầm pháp tánh, mới thấu đáo pháp tánh vi diệu, pháp tánh có thể dạy cho tất cả các bậc mê lầm đặng Chánh Giác, có thể đào tạo cho kẻ xuẩn được trí tuệ thông đạt. Khi chưa biết Pháp Tánh thì pháp tánh là VÔ MINH, lúc thật biết pháp tánh thời pháp tánh là PHÁP THÂN PHẬT. Do đó pháp tánh có một Đại Lực cung đốn cho tất cả từ một hoàn cảnh ý chí, một nước thanh bình hay loạn lạc đều thị hiện tỏ rõ, lúc đã thị hiện gọi Tướng Pháp, khi chưa thị hiện thì linh động di chuyển là Pháp Tánh. Vì vậy ở trong một hoàn cảnh sướng khổ nào, ở nơi cấp bậc Tu Chứng nào, ở nơi thứ vị nào cũng thảy đều in tuồng như thật mà lầm nhận, cho mình sướng khổ vui buồn cả.

Pháp Tánh có thể diễn biến kết nạp từ Mây Nước Gió Mưa đến Sơn Hà Đại Địa vũ trụ nhân sinh trong sự Đồng Hiệp Đồng Hóa để cung đốn mỗi mỗi theo sự di chuyển, theo lời mong muốn mà thành tựu. Kẻ lầm liền tưởng là Tiên Thần nhỏ phước ban cho cầu khẩn vái van lạy lục, pháp tánh lại diễn y như Tiên Thần nhỏ phước ban cho, làm cho tất cả phải ngờ vực sống trong KHOA HỌC HUYỀN BÍ không tìm ra lối thoát.

Nên Phật nói: “Nó cầu thế nào, nó được thế ấy, nó mong làm sao nó làm Phật Thánh Tiên để nó an trụ ngọt bùi thành tựu công năng của nó. Chớ nó không ngờ là nó đã lầm theo các pháp để kiến chấp tự ngã xây tạo trong HỮU VÔ NIẾT BÀN gọi là Sở Đắc Chân Lý. Nếu nó biết được Pháp Tánh di chuyển cung ứng theo nhu cầu, nó lìa Ngã Sở để tận biết thì nó hoàn toàn giải thoát.”

Trên con đường tu Phật, đối với đạo Phật chủ yếu đưa tất cả được Tri Kiến Giải Thoát, vì mê lầm bởi chấp pháp nên chi với mục tiêu của Phật dạy thế nào, chỉ bày thế nào, cho tất cả khỏi lầm các pháp, thật biết pháp tánh di chuyển, khi đã biết gọi là Giác, lúc khỏi lầm thì hết mê nên chi bậc Tri Đạo khéo Thuyết Đạo, bậc ấy thường Khai Thị để cho tất cả nhận biết khỏi lầm thì hết mê, nên chi bậc Tri Đạo khéo Thuyết Đạo, bậc ấy thường Khai Thị để cho tất cả nhận biết khỏi mê hết lầm gọi là Ngộ Nhập Chánh Giác.

Bậc Tri Đạo Thuyết Đạo khai thị không khác mấy với anh thợ vẽ, vì chúng sanh lầm sống trong bức tranh vẽ nên mường tượng mơ màng trong muôn ngàn hình thức, mắc miếu vạn cảnh ngổn ngang làm cho Thân Tâm ràng buộc không ngoài Pháp Giới định kỳ, do đó mà bậc Tri Đạo khéo thuyết đạo mới khai thị vẽ ra từng hoàn cảnh thật hư, hư thật để diễn nói làm cho tất cả chúng sanh nhận lãnh Trực Giác. Đối với bậc Tri Đạo thuyết đạo vẽ vời nói năng chẳng biết bao nhiêu là bao nhiêu lời và tranh cốt để cho nhận đặng, tu đến căn bản giác ngộ là hơn cả, chớ chẳng phải nói ra, vẽ ra để cho chúng sanh vào trong lời mà thọ chấp, vào trong bức tranh cố định, trên con đường tu Phật cũng thế. Thật tỏ Pháp Tánh liền Giác Ngộ. Thật sạch LÝ đặng dung thông. Thật thường chân không chấp pháp./-

TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN

14. TÂM PHÁP BẤT NHỊ

Nói về TÂM PHÁP BẤT NHỊ đó là giải rõ rộng rãi trùm khắp để biết Tâm và Pháp. Đứng THỂ TÂM mà nói Tâm không chỗ chỉ mới gọi là Tâm, Kinh Kim Cang có câu: “ƯNG VÔ SỞ TRỤ NHI SANH KỲ TÂM.” Còn về phần Pháp thì nó phát xuất nơi NGHE-THẤY-BIẾT làm sở trụ, pháp nó có Tướng Sắc cùng khắp chẳng khác mấy với Tâm, nó ví như: Mặt Trời là Tâm, còn ánh sáng chiếu ra gọi là PHÁP, thành thử Tâm soi bao nhiêu thì PHÁP có bấy nhiêu, từ Cây Cảnh đến Núi Sông, Mây Gió, Hư Không, Tạng Thức thảy đều là PHÁP, Pháp dùng riêng văn tự Phật Đạo nên đối với bậc tu hành có một trình độ khá mới nhận được lại có thể Pháp chia ra năm Tánh Phần như: SẮC, THINH, HƯƠNG, VỊ, XÚC PHÁP, năm Tánh Phần đại diện cho sự NGHE-THẤY-BIẾT, chung lại được gọi là SẮC TƯỚNG SẮC PHÁP để lưu hành từ hơi thở đến việc làm Trí Tuệ cùng Thân Mạng cũng đều là Pháp. Pháp chỉ áp dụng trong lúc Mê Lầm, khi tu hành đặng Giác Ngộ Tâm liền tỏ Pháp, Pháp ấy trở nên vô nghĩa. Lúc Mê Lầm Thân Mạng chỉ thọ hưởng trong Tứ Đại Giả Hợp chính là Thân Vạn Pháp liên tục cuồng quay hợp thành, khi Giác Ngộ cũng Thân Tứ Đại dung thông thành THÂN PHẬT.

Ví như: NƯỚC và SÓNG BIỂN có hai đặc tánh khác nhau hai danh giả khác nhau, nhưng chính nó đồng một Thể Nước, nước thời phẳng lặng thanh bình, khi nước không thanh bình phẳng lặng cử động nổi Cồn gọi là Sóng, do nổi cồn cử động mà có Bọt gọi là Bọt Nước. Không khác mấy với Chân Tâm duy nhất thanh bình phẳng lặng, liền một khởi sanh ra Vạn Pháp, gìn giữ pháp trở nên Thân Tâm cũng vậy. Tâm do Vọng mà có pháp như lò than lửa đỏ kia không có cây than sống thì chẳng có khói, nhưng than kia có cây sống nên có khói. Đối với kẻ bị mê lầm vốn có sẵn Nhất Tâm từ trước, nay vì Vọng Đảo nên Nhất Tâm nọ phải theo TÂM PHÁP tương song hai tướng phiên diễn tối sáng mơ màng, khi mong về Chân Tâm thì phải thực hành Tứ Nhiếp Pháp để tỏ pháp về TÂM.

Tâm Pháp bất nhị hay Tâm Cảnh không hai như trên đã nói, do lầm lẫn mà theo Pháp bỏ Tâm. Nay nhiếp thâu theo pháp để rõ pháp, liền bỏ Pháp trọn về Tâm. Bậc tu hành phải dùng trí tuệ và đạo hạnh, nếu chẳng có trí tuệ phá mê chấp thì không biết đặng vạn pháp.

Khi phá mê chấp đặng mà chẳng gìn giữ Đạo Hạnh thời cũng khó mà thành tựu, vì sao? Vì không Đạo Hạnh không Tứ Nhiếp Pháp, không Tứ Nhiếp Pháp không thành tựu, gọi là Tánh Tướng song tu vậy.

Phật thường nói: “Tâm chúng sanh thanh bình thì xứ sở thanh bình, tâm chúng sanh chướng đối vọng đảo trở thành nghiệp thì xứ sở mưa gió bất hòa sanh ra hạn hán cướp giặc. Vì sao? Vì Tâm Cảnh không hai mà đồng ứng như thế.”

Nơi Tâm cùng vạn pháp nó có một liên hệ, nó chẳng khác nào ngọn đèn và ánh sáng của đèn vì vậy nên sự Nghe-Thấy-Biết nó tùy theo cây đèn lớn nhỏ, tùy theo Tâm Thức rộng hẹp vui buồn sướng khổ cảnh đồng diễn y như Tâm không khác. Nó ví như con TIM và MẠCH MÁU, tim nhịp mạnh thì mạch máu nhảy mạnh, tim điều hòa thì mạch máu dung thông, vì vậy mà có câu:

Người buồn Cảnh có vui đâu?
Tâm lo một mối, Mây sầu lửng lơ.

Hai câu trên chứng tỏ Tâm Pháp không hai, nhờ đó bậc tu hành mới dùng Thân Tâm tu tập nhiếp thâu vạn pháp, dùng Lý Trí làm Tinh Thần, dùng Đạo Hạnh Hành Nguyện làm Công Năng Vật Chất để lướt qua các Nghịch Cảnh chướng đối, ngăn ngại mà Sở Đắc VÔ NGẠI ĐẠI BI Tổng Trì Đà La Ni Tạng. Có nghĩa là không ngăn ngại thu nhiếp cho trọn vẹn các pháp, hiểu biết rõ thâu gồm tất cả chẳng thiếu sót nơi Như Lai Tạng. Bậc tu như thế mới khéo tu, mới khéo đi từ hai tướng trở thành một tướng Bất Nhị.

Cũng có bậc thi hành trước tu tập để bậc ấy công dụng tạo ngoại cảnh thanh bình trợ cho Thân Tâm nhàn hạ, lại dùng lời nói hiền hậu để cho Thân Tâm khỏi điều gay cấn rắc rối, khi gặp điều bất ổn định thì lấy một câu nhịn, chín điều lành, cầu an vui thân tâm thoải mái. Đó cũng là một phương sách thực tế, một lối xếp xử giữa Tâm Cảnh liên thông khéo léo, đối với bậc tu hành có nhiều bậc chuyên ròng nơi Kinh Điển để bắt chước theo kinh điển, thường dùng Tướng Phật lối đi in như Phật mỗi khi va chạm các pháp né sợ bị động tâm, xa lánh thế nhân tìm tâm nơi Sơn Cước, việc trước mắt cho là chướng ngại để tìm phương xa, mong đợi trong tư tưởng hóa thành, bậc như thế gọi là lấy Pháp để nuôi pháp tu cầu Phước Báo Nhân Thiên.

Có bậc tu hành đơn giản, dụng Thân Tâm chiêm ngưỡng Đức Phật, Tánh Phật để niệm Phật gìn giữ Tâm, không cho Tâm nghĩ điều quấy, chẳng cho THÂN làm điều quấy, Tâm không sanh hận thù, cổi giải hận thù, tâm thanh tịnh bình thản trước sự vặc mắc lớn nhỏ thảy đều tha thứ miễn tâm thanh tịnh, lâu ngày được Thanh Tịnh Tâm mà về Nhất Tâm bất loạn A DI ĐÀ PHẬT Chánh Báo Tịnh Độ.

Thà TÂM niệm Phật vững bền,
Còn hơn Thọ Ngã chưa đền đáp ân.

Đối với bậc tu có tâm thành chiêm ngưỡng niệm Phật xa lìa các đố tật chướng đối, còn hơn bậc hiểu biết Phật pháp chưa rành mạch chấp pháp Tự Ngã, thì dù cho có hiểu Tâm Cảnh không hai mà thọ chấp, thời tâm kia nó chẳng phải là Tâm mà là Pháp Chấp, do dùng trong tư tưởng tự ngã thì tự tại vô ngại nơi tư tưởng, chớ đến khi gặp ngoại cảnh xâm chiếm va chạm liền sinh tâm phiền não trách móc, Tâm Cảnh đều hai.

Nói đến tu Phật thì có nhiều pháp để tu, nhưng vạn pháp chẳng bằng tín tâm căn bản, bậc tín tâm dù có tu trong pháp, thời pháp đang tu nó cũng trở thành tu Tâm, bậc tu chưa tin thành quán tâm để tu thì tâm quán đó nó cũng trở thành Tâm Pháp.

Cũng như đang nghe Thiện Tri Thức thuyết pháp hoặc xem Kinh hay chiêm ngưỡng Phật, nhất tâm tín thành thì lời pháp Thiện Tri Thức, quyển Kinh Phật thảy đều Tâm Nghe, Tâm Thấy, Tâm Biết thể tánh. Bằng nghe Thiện Tri Thức thuyết pháp, xem Kinh cùng chiêm ngưỡng Phật mà chẳng có tín tâm thì nghe Pháp, thấy chữ Kinh chẳng biết nghĩa kinh, cũng như biết tượng Phật chớ chưa biết Đức Tánh Từ Bi Hỷ Xả của Phật.

Về pháp cúng dường cũng vậy. Bậc tu thành tâm cúng dường, gặp bậc thọ lãnh pháp cúng dường gian dối, thì bậc tín tâm vẫn được sự Cúng Dường Tâm, còn bậc thọ lãnh phải chịu nơi pháp. Có bậc Thiện Tri Thức thọ lãnh cúng dường của chúng, mà chúng đem lễ vật đến cúng dường chẳng tín tâm thì vẫn được thọ lãnh pháp cúng dường, chớ chẳng phải tâm cúng dường. Pháp cúng dường, Tâm cúng dường nó có hai nơi Chánh Báo khác nhau. Pháp cúng dường đặng Chánh Báo HỮU LẬU SẮC PHÁP cầu Phước, còn Tâm cúng dường đặng Chánh Báo VÔ LẬU TRI KIẾN GIẢI THOÁT.

Tâm Pháp Bất Nhị với sự cứu cánh của chư Phật, tuy nói rằng chẳng vi diệu nhưng thật vi diệu đối với từng lớp, từng thành phần thảy đều đặng Tri Kiến Phật, thảy đều Giải Thoát Môn, không kể kẻ nghèo người giàu, bất luận bậc trí tuệ, hoặc kẻ kém trí tuệ, miễn là Tín Tâm liền sở đắc Chân Lý Bất Nhị.

Bậc tu hành dù cho có gặp đặng bậc Thiện Tri Thức truyền TÂM ẤN, mà bậc tu hãy còn nghi chấp cố nghe biết chăng nữa, thời Tâm Ấn truyền trao nó cũng trở thành Tâm Pháp hai tướng. Nếu bậc tu hành tín tâm đảnh lễ nghe thuyết pháp về môn Tâm Pháp Bất Nhị, đương nhiên thông đạt mắt nhìn thấy, tai nghe đặng liền Trọn Giác Bất Nhị sở đắc Nhất Tâm viên dung trùm khắp đến bất thối chuyển.

Cũng như có kẻ chưa biết được Tâm Pháp một gốc, chưa biết được NƯỚC BIỂN và SÓNG BIỂN đồng thể, nên đứng bên bờ biển chờ cho sóng lặng để múc nước, đứng mãi chờ mãi. Lúc bấy giờ gặp TRƯỞNG GIẢ, kẻ nọ cung kính thưa hỏi: “Kính thưa Trưởng Giả, nhờ Trưởng Giả giúp cho tôi đặng lấy nước.” Trưởng Giả mỉm cười thương hại kẻ lầm lẫn chưa biết, nên nói với kẻ ấy rằng: “Chính sóng đó là nước, ông chớ nghi ngại cứ xuống múc xem, lời chân thành ta nói thật.” Kẻ kia vâng lời nhờ Tín Tâm nên xuống múc, múc xong nhìn trong thùng thấy nó không phải là sóng, vui mừng vô kể bèn thầm nghĩ: “Ta dại dột vô cùng, lầm lẫn quá mức từ bấy lâu ta cứ mãi mong chờ sóng lặng nước phơi bày, nào ngờ chính ta phải nhiếp thâu sóng về ta thì sóng kia trở thành nước.” Từ đó kẻ lấy nước khỏi lo tâm chí tự tại vô ngại, mắt nhìn sóng kia toàn là nước chẳng bao giờ còn mơ vọng tìm nước đâu xa, nên trọn biết tâm bất thối chuyển, tâm pháp bất nhị cũng thế.

Tâm Pháp có một, nhưng đối với kẻ lầm thì Tâm Pháp kia nó trở thành hai tướng, bỏ tâm theo pháp. Vì vậy, mà lúc chưa sở đắc bất nhị, dù có đọc tụng Tâm Pháp không hai chăng nó cũng là hai. Vì sao? Vì đã thọ chủng vạn pháp, khi thọ chủng tánh pháp thì phải nương theo pháp dễ lầm tưởng vạn pháp, trong vạn pháp thảy đều có vạn lớp vọng khác nhau trở thành Định Tưởng Thường Tưởng để chạy nơi tưởng mà tìm tâm, nhưng tâm nào có trông tưởng? Mê nào phải nơi Ngộ? Điên nào chung với Tỉnh? Khi Tỉnh hết điên, lúc Ngộ tan mê, khi Tâm đâu còn tưởng.

Ví như: Có kẻ đi tìm vàng, còn nghi chấp dẫy đầy, còn ấn tượng nhiều tưởng. Đến khi được vào kho vàng nào biết, cứ mãi đi trong kho vàng để tìm vàng, nằm trong kho vàng để tìm vàng, phải chịu chẳng biết bao nhiêu nhọc nhằn sướng khổ lo lắng đào tạo kho vàng trong tư tưởng để giàu sang. Năm nầy qua tháng nọ mỏi mê chê chán, đến một hôm nằm trên tảng vàng giật mình vì nhìn lại nơi mình nằm mòn chói có ánh vàng, chừng ấy mới biết mình đang ở trong kho vàng lại đi tìm vàng.

Kẻ ấy mới mừng rỡ cười thầm, thật mình mê lầm ngu dại duy nhất nó chỉ BIẾT NHẬN VÀ CHƯA BIẾT NHẬN MÀ THÔI. Sau khi tìm biết trọn hưởng kho vàng không còn mơ màng vọng đảo chi cả, thọ lãnh giàu sang tột đỉnh.

Đức Thế Tôn Ngài đã chỉ kho vàng TÂM PHÁP BẤT NHỊ tại bậc tu chưa biết nhận nên phải chạy quanh, đến lúc biết nhận thì trọn NHẤT TÂM GIẢI THOÁT. Lầm làm chúng sanh, Giác Ngộ là Phật chớ chẳng chi là Phật./-

TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN

13. TỨ ĐẠI GIẢ HỢP Một Lý Mục Giải về Vũ Trụ và Nhân Sinh

Đạo Phật nói về TỨ ĐẠI GIẢ HỢP để nêu lên sự phân đoán suy ngẫm, cốt tìm hiểu biết đặng một lý trí rộng rãi trí tuệ thông đạt giữa NHÂN SINH VŨ TRỤ liên hệ, giữa con người với quần chúng giữa bậc tu với Tín chúng ở trong Sơn Hà Đại Địa. Khi Nhân Sinh, hoặc bậc tu hành biết đặng quanh mình thảy đều liên kết mật thiết với nhau, thì đương nhiên trong lúc giao cảm gần gũi không có thành kiến, hay cách biệt nhau được tương đồng thông đạt.

Nói đến Sắc Pháp cảnh vật, tư tưởng Tạng Thức, cũng như THÂN đi đôi với TÂM, Bóng không xa Hình là mấy, nên VÔ TRI và HỮU TRI nương tựa nhau như CÁ với NƯỚC, đó chính là lời mở đầu của bài Tứ Đại nầy.

Vũ Trụ Nhân Sinh từ ngàn của ngàn xưa, nhiều bậc tìm biết để giải quyết, có kẻ tách rời để tìm khám xét, có bậc hòa mình trong Vũ Trụ cùng Nhân Sinh được tỏ rõ một phần nào khi bậc đã biết đặng mới nhận thấy Vũ Trụ và Nhân Sinh có một giá trị đáng kể còn chưa biết thì cho nó là một món nợ trầm luân biển khổ.

Vũ Trụ Nhân Sinh, quả Đất với con Người, chỉ có BIẾT cùng CHƯA BIẾT mà phải tốn chẳng biết bao nhiêu công trình khám phá, tốn không biết bao nhiêu công năng tu tập, tốn chẳng biết bao nhiêu Lý Trí tìm tòi, khi kết quả nó vẫn đi đến SIÊU HÌNH VẠN TƯỢNG, không giải quyết được. Khi đã có bậc giải quyết được thì nào ai Tín Nhiệm? Bậc ấy chỉ để lại vài câu trên tảng đá hoặc chép ghi trên kinh bộ là cùng.

Vũ Trụ với Nhân Sinh chỉ có Đạo Phật mới giải quyết được hoàn toàn tuyệt mỹ. Đức Thế Tôn Ngài để lại các Pháp Môn cho Nhân Sinh nương theo đó để tu hành có một ý nghĩa TINH THẦN lẫn VẬT CHẤT đặng tỏ ngộ giải thoát cả Vũ Trụ đồng Nhân Sinh, nhưng mấy ai tu đúng với Tinh thần, làm đúng với Vật Chất Phật đã chỉ, vì sai biệt nên khám phá chẳng được mà lại mê lầm thêm trong Vũ Trụ.

Khi bậc tu hành, một là tu đúng đường lối của Phật đã truyền dạy, hai là đúng với tinh thần cùng giáo môn thì mới thấm nhuần hiểu biết được đường tu Phật có một giá trị tuyệt mỹ vô kể, một nền tảng đặc sắc quyết định khám phá vũ trụ đưa nhân sinh thoát vòng Sanh Diệt. Từ Pháp Môn LỤC HÒA hay TỨ NHIẾP PHÁP hoặc nhiều pháp môn nữa, mỗi một pháp môn như thế nó phải là một dụng cụ để bậc tu có đủ điều kiện TRI KIẾN GIẢI THOÁT làm chủ Vũ Trụ. Chừng ấy bậc tu mới biết giữa vũ trụ và tu hành chung cùng vạn vật nó có liên hệ, chẳng khác nào bà con giòng họ cha mẹ anh em tâm chẳng phân biệt HỮU TRI VÔ TRI biết hoặc không biết đó chính là một kỳ diệu mà bậc Giác Ngộ đã đoạt đến nên nói:

“Nếu Ta cho Vũ Trụ là quan khách, thì Vũ Trụ có quyền cho Ta là khách quan. Bằng Ta biết được Vũ Trụ, thời Vũ Trụ đồng biết Ta, Ta và Vũ Trụ Duy Nhất.”

SAO GỌI LÀ: TỨ ĐẠI GIẢ HỢP?

Tứ Đại là bốn chất lớn hợp thành, bốn chất ấy nó nương nhau để hợp, khi nó hợp phải do nơi Đồng thì nó mới hợp. Cũng như: Bột có chất lỏng hòa vào thì bột kia liền hợp, bằng bột hòa với chất lửa thì bột nọ không hợp mà lại cháy tan. Nên chi bốn chất hợp thành tùy thuận đồng hợp kết nạp nhau được thời liền hóa, đối với bốn đại nó hợp hóa không có lựa chọn, miễn sao đồng hợp thì đồng hóa. Đó chính là ĐẶC TÁNH VŨ TRỤ NHÂN SINH, từ Vật Chất hay Tinh Thần nó cũng vậy, nên chi giữa Nhân Sinh cùng Nhân Sinh hợp nhau về Tinh Thần thì bạn chí thân, hợp nhau về Hình Sắc thì làm vợ chồng đôi lứa. Nó có đặc tánh hợp hóa như thế nên mới có muôn trùng Cảnh và Vật, vạn vạn chúng sanh giới hạn riêng chung. Riêng chung nên có hợp tan, tan hợp, xây đủ hoàn cảnh hợp tan, vì có hợp tan chia rẽ mà Phật dạy tu pháp môn LỤC HÒA, các chư Tăng thường áp dụng. Do nơi không hợp mà Phật phải dạy TỨ NHIẾP PHÁP, Phật trọng yếu cho nó hợp đặng Chư Bồ Tát nó liền Hóa Thân Chư Bồ Tát, cho nó hợp với Chư Phật thì nó liền Hóa Thân Phật, đó chính là sự trọng yếu của Giáo Môn. Nếu tu để mà tu, không hợp thời không bao giờ Hóa nên ghi nhớ.

Khi Tứ Đại hợp thành hình liền hóa ra Núi Sông Cây Cảnh, các loài Thực Vật muôn màu sắc tùy theo sự hóa mà kết nạp, có THÂN, HÌNH, TƯỚNG gọi là TƯỚNG SẮC, bên Tướng Sắc nó có loài ĐỘNG VẬT và THỰC VẬT, loài Động Vật có cả NHÂN SINH.

Tất cả thảy đều nương tựa nuôi nấng nhau trong VŨ TRỤ nhưng chính Nhân Sinh ít để ý, chỉ để ý nhiều nhất là nơi hợp tan Sống Chết đó thôi.

Đứng theo tầm quan sát thì mới biết đặng Vũ Trụ Nhân Sinh có hai khối HỮU TRI và VÔ TRI. Khối Hữu Tri là khối ĐỘNG VẬT, khối VÔ TRI là khối THỰC VẬT cây cảnh đất đá núi sông. Khối Hữu Tri Động vật do Nhân Sinh Đại Diện làm chủ, khối Vô Tri Thực Vật do Vũ Trụ Đại Diện làm chủ. Chung thì Hữu Tri Vô Tri thảy đều có sẵn Tứ Đại hợp thành, nhưng Hữu Tri có thêm hai Đại nữa sẽ nói phần dưới đây.

Thế nào là TỨ ĐẠI hợp thành? Thế nào là LỤC ĐẠI hiểu biết?

Tứ Đại gồm có: ĐẠI ĐỊA (chất đất), THỦY ĐẠI (chất nước), PHONG ĐẠI (chất gió), HỎA ĐẠI (chất lửa), bốn chất trên gọi là Tứ Đại. Còn thêm hai đại nữa là: HƯ KHÔNG ĐẠI, TẠNG THỨC ĐẠI, trở nên LỤC ĐẠI về phần Hữu Tri được hiểu biết nhờ Tạng Thức Hư Không liên tiếp các pháp để mà biết.

Đối với Nhân Sinh hơn Vũ Trụ hai đại Hư Không Tạng Thức thành thử Nhân Sinh được hiểu biết. Nhưng rất tiếc Nhân Sinh không thể nào dùng Tạng Thức để đặng hiểu biết rộng rãi bao la cùng khắp để hơn vũ trụ, lại dùng Ý THỨC cá nhân nên cái biết kia chỉ được biết phần của mình nhỏ bé, vì vậy phải đi học để mà biết, biết đến Siêu Hình hay Thông Thái Học, Triết Học, Triết Lý Khoa Học, Y Học cùng nhiều ngành đặng lần bước dùng ý thức trên một khía cạnh nào chớ chẳng trọn được toàn diện công dụng Tạng Thức.

Trong khi Nhân Sinh đứng nơi Giai Thế suy nghĩ sự hợp tan sanh diệt chính là mối lo ngại nhất, cần phải giải quyết để bảo tồn tinh thần lẫn vật chất nên chi mới dùng ý thức để vượt trên ý thức, gọi là LÝ TRÍ lập thành Triết Học để biết, biết chưa công nhận, phá nơi biết đó đặng biết lần lần tiến bộ, dùng nơi Triết Học có một Lý Giải trở thành phân khối Triết Học là TRIẾT LÝ, cùng nhiều môn phụ thuộc về Lý Trí làm con đường khám phá Vũ Trụ trên mặt Tinh Thần.

Còn bên Vật Chất Thân Mạng thì sưu tầm khảo cứu vũ trụ để mổ xẻ thích ứng giúp đỡ cho nhân loại nên thành lập ra KHOA HỌC, Y HỌC, Y DƯỢC. Con đường Khoa Học của Nhân Sinh rất tiến bộ về nguyên liệu giải quyết được nhiều khả quan đáng kể như: Làm cho các Đất Nước Cây Lá hợp thành thuốc chữa bệnh, lúc nhân sinh suy kém lại tìm được các hành tinh trong trái Đất cùng các Thực Chất đến tinh chất thành Nguyên Tử hay Dưỡng Khí Tử của các nguyên liệu đồng hợp đồng hóa, bất hợp bất hóa, lại có thể làm hợp để Hoá Giải cho bị nhiễm độc hay kết nạp giải ra.

Kể đến nền KHOA HỌC tiến bộ trên ý thức chớ đối với Tạng Thức chưa thấm vào đâu, vì vậy đưa vấn đề hợp tan của Nhân Sinh khi nó đã đến đành chịu.

Hai khối đã nói trên, từ vật chất đến tinh thần tích cực làm việc trong Bổn Phận nghề nghiệp nhưng chưa có cung đốn theo nổi nhu cầu của nhân loại đang lo ngại trên vũ trụ nầy. Do đó có một khối thứ ba ra đời để giải quyết sở cầu, khối ấy gọi là khối TU, khối tu chung gồm tất cả Tinh Thần lẫn Vật Chất. Tinh thần thời khảo cứu TU THIỀN, tu TRIẾT HỌC ZEN, tu THÔNG HỌC, tu ĐẠO PHẬT.

Đứng trên vật chất HÀNH NGUYỆN dụng Công Năng Lý Tu đến đâu sự làm phải đến nơi đó, trong khối tu còn rất nhiều bậc tu, nhiều lối tu tùy theo Chí Nguyện sở cầu để tu. Nhưng mục đích Siêu Thoát đoạt đến thành tựu giải quyết SỐNG CHẾT.

Nhưng trong khối tu thường bị sai lạc lầm tưởng thành thử vẫn bị vướng nơi ý chí của KHOA HỌC và HUYỀN BÍ HỌC. Dù cho bậc đang tu Phật hay đã yên trí mình nhất niệm tu Phật, đành phải sai lạc trong Thần Bí Học để đoạt đến HỌC HUYỀN BÍ nào có hay biết. Nếu có bậc nhắc đến thì bậc tu Phật liền cải chánh, bậc chưa vội cải chánh, bậc biết kiểm điểm thời mới nhìn thấy mình đang bị lầm. Vì sao? Vì Sắc Pháp Tôn Chỉ Tu Niệm có cương đề pháp môn hẳn hòi để tu. Nhưng ngược lại ý thức tư tưởng tu cầu thần quyền theo tư tưởng để tu hơn theo Phật mà tu, do đó phát sinh tư tưởng đề mục tư tưởng tu theo Siêu Hình vạn tướng, mong mỏi sự Huyền Bí để mà học, thì tự hỏi có phải sai lạc đến 99 phần trăm không?

Phần nhiều công dụng nơi tư tưởng của ý thức để tu nên thường Bị Biết, hơn là Tự Biết, khi Tự Biết hoặc Bị Biết nơi công năng Hạnh Nguyện làm căn bản vội chấp nhận ý thức của mình, Phật gọi là BẢN NGÃ, lúc tu hành đem tư tưởng đồng hợp sở thích gọi là Cái Muốn để tu.

Cái muốn nó từng giai đoạn tư tưởng, nó có nhiều thay đổi, bậc tu nương theo nó, để biết tỏ rõ THỂ CÁCH tư tưởng đặng tỏ ngộ cùng làm tài liệu, giúp cho kẻ khác gặp phải tư tưởng vấp váp khó giải, mình liền cổi giải phá mê chấp cho họ rất có lợi. Phật thường nói: “Bậc tu biết con bệnh của mình, đã chữa xong bệnh liền đem cứu chữa cho kẻ khác. Bằng bậc tu sợ tư tưởng nó diễn mãi động loạn Thân Tâm mà cố đè nén tiêu diệt để tu Tịnh thật sai với chủ đích giải thoát, vì sao? Vì chính ĐỘNG ĐỂ GIÁC, hơn là TỊNH để ngăn biệt, cũng như: Thà mở cửa để biết, còn hơn đóng cửa để chịu chưa biết.”

Bậc tu hành hoặc tu Thiền cần nhất Tâm rộng rãi khoát đạt, thì buổi ban đầu chưa hiểu biết nhưng đã có sẵn bản năng tu để giúp mình và cứu người, đó là điểm chính yếu của Chư Bồ Tát Nguyện thì bậc ấy đã có lập căn từ trước chưa tu, gọi là Đại Căn.

Bằng như bậc tu tự hào mình thông minh, xem kinh để khảo cứu hoặc chiêm nghiệm trong khoa học, hình học cùng toán học đặng nghiên cứu mà giác ngộ, thật ra chỉ nung đúc Ý THỨC HỆ dùng tư tưởng của mình để tu theo tư tưởng, trong thời gian tu nơi Bảo Thủ tự cao, nơi Đẳng Bậc Bản Ngã do đó tu trong Cái Biết để Bị Biết xem kinh đặng thuộc kinh loanh quanh không tìm ra lối thoát.

Bậc như vậy nếu tu Thiền liền có một quan niệm mình tu cho giải thoát thì mới độ người bằng chưa giải thoát chẳng bao giờ cứu độ được người, bèn huân tập tư tưởng riêng tư ý thức trong giờ công phu chủ quán thoát trần vượt ngoài quả Đất, khi xong giờ công phu thì gìn giữ Tịnh Pháp đem tư tưởng cấu tạo TƯỚNG PHẬT, nung đúc tư tưởng cho khỏi lạc hướng nơi chiêm ngưỡng niệm niệm Tam Bảo, niệm niệm Cảnh Giới Tây Phương. Trong một thời gian tư tưởng thành tựu y theo sự mong muốn liền phát sanh tu khổ hạnh hoặc đóng Cốc tu tịnh để rút Thần Thức di chuyển hư không để tìm nơi Ý Thức cố tạo, bậc như thế một là Đẳng Bậc SIÊU HÌNH, hai là Đẳng Bậc TINH KHÍ THẦN THỨC trong hàng Định Tưởng Thần Thức.

Hai nữa bậc tu Thiền có một Tâm Chí rộng rãi phát Bồ Đề Tâm nguyện, khi tu Thiền có một quan niệm mong cầu Tri Kiến Giải Thoát, tâm giúp đỡ học hỏi cầu tiến bộ. Trong lúc công phu chẳng dùng tư tưởng để Thấy mà đặng Thấy, không suy nghĩ mà Biết, hoặc giả chẳng mong Nghe, mà được Nghe.

Đó chính là Ý Thức nương theo Tâm Thức di chuyển tháp tùng vào NHƯ TẠNG, nó vượt khỏi Tạng Thức nên chẳng Tưởng mà Thấy, chẳng Cầu mà Biết, chẳng Nghe mà Nghe, đó chính là THỂ TÁNH của NHƯ TẠNG, thể tánh Như Tạng nó có đặc điểm TỰ GIÁC. Nếu các bậc tu hành biết đặng Thể Tánh Tự Giác của Như Tạng thì cứ nương theo phẩm BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA cùng VÔ NGÃ để tu thì chắc chắn giải quyết được Vũ Trụ Nhân Sinh, bằng cố định gọi là Chấp Pháp, đã pháp chấp là pháp Thọ Ngã ý thức, khi Thọ Ngã Ý Thức thì dù có tu cho cách mấy chăng cũng đoạt đến SIÊU HÌNH VẠN TƯỚNG để Chánh Báo nơi Sanh Diệt Luân Hồi Thể Chế vậy.

Phần nhiều các bậc tu hành hay gìn giữ TỊNH PHÁP chớ chưa biết được Pháp Tịnh có những tác dụng gì. Nếu biết được Pháp Tịnh để sử dụng pháp tịnh thật là BẢO PHÁP quý báu vô kể. Pháp Tịnh là một pháp để ĐỘ trong lúc sơ sẩy, nóng giận làm điều xấu xa hay sai lạc bảo thủ kình cãi, lúc ấy dằn tâm xuống dùng Pháp Tịnh độ sai lầm, khi độ sai lầm xong biết cải hối gọi là GIÁC TỊNH, vì chưa biết xử dụng nên các bậc tu Thiền tu sai mà phải bệnh hoạn sinh đủ chứng tật chính là lý do đó.

Hai nữa, bậc tu Thiền tư tưởng cố định gìn giữ Pháp Tịnh sau lâu ngày bị chứng Long Não lười biếng, gặp ngoại cảnh sợ động mà lấy Tịnh phải sa vào nơi Tịnh Biệt để tu hoặc xa Nhân Sinh vào tu nơi cùng cốc. Bậc tu Thiền cần nên biết tu Thiền chủ yếu có Trí Tuệ để phá chấp Mê đặng Giác Ngộ, chớ chẳng phải tu Thiền đặng Tịnh, đi trong pháp Tịnh cố định nó rất có hại. Vì sao? Vì các pháp không viễn thông, nên rất dễ biến chứng vì sức Thiền nó nóng có thể đưa vào Ruột, Gan, Bao Tử, tê liệt tay chân đến Bán Thân bất toại, đến bộ hạ bị di tinh, hượt tinh và nhiều chứng bệnh.

Ba nữa, tu Thiền dùng ấn tưởng để tu như: Thiên Điện, Nhân Điện, Dòng Pháp, Chữ Vạn, Tượng Phật, Vòng Tròn, nương trong ấn tượng lập pháp Tọa Thiền, không phải ý thức tư tưởng mà vẫn bị ấn tượng ý thức tưởng. Khi tu như vậy thì về phần bên ngoài từ ăn đến uống tinh khiết, đi đứng thanh bai, tu hành thanh tịnh một thời gian vẫn theo ý thức thành tựu kết quả, một là nhìn thấy Tiên Thần, hai là gặp Phật vội chấp nhận, không ngờ đã lầm ấn tượng viễn tượng thọ chấp trở thành tu Tiên tu Thần, sau được Phước Báo làm Tiên Thần tùy theo Đức Tánh, tùy theo Trí Tuệ mà thành tựu, nhưng không ngoài ý thức siêu hình trong khoa học Huyền Bí.

Bốn nữa, bậc tu Thiền dứt khoát tư tưởng, không tư tưởng nhưng THÂN TÂM di chuyển như: Tay bắt ấn, Thân cử động xoay chuyển đủ điều, cử động đủ cách, đôi khi miệng phát ra đọc Chú, tay vẽ bùa, làm cho bậc tu chẳng hiểu chi cả, sinh sợ sệt. Đó chính là bậc tu Đức Tính tốt, bằng bậc tu tham vọng mê tín hãy còn nhiều, liền mừng rỡ chấp nhận nơi Thiền Phật chứng hoặc Tiên Thần, Cô Bà chứng tri cùng bậc THIỆN TRI THỨC huyền bí chứng giám dạy dỗ tu hành. Từ ấy cứ tọa thiền để chìm đắm nơi Thiền mà tu, như vậy gọi là Tu nơi Ý Thức tùy thuận sở chấp ý thức biến diễn để tu.

Bậc tu Thiền do nơi thọ chấp trên, nên chi trong Vũ Trụ mới nở sinh nhiều tông Thần Đạo, Thánh Đạo, Phù Thủy Đạo, hay trăm ngàn mối Đạo đã không giải quyết được Vũ Trụ Nhân Sinh lại làm cho các bậc KHOA HỌC TRIẾT HỌC phải phân vân khó giải, đâm tự mình hồ nghi mình mà phải chịu trong vòng mơ hồ ảo tượng.

Bậc tu Thiền nếu biết pháp môn của Phật để tu, thì nhất định giải quyết Vũ Trụ và Nhân Sinh trong Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới dễ dàng. Bằng chưa biết thì cứ từ quả Đất được sinh cõi Trời rồi từ Trời được sinh cảnh Tiên, từ cảnh Tiên lại sinh cõi Thánh Thần hoặc còn nhiều cõi nữa. Chẳng khác con chim từ cành cây nầy qua cây nọ.

THẾ NÀO GỌI LÀ BIẾT TU THIỀN?

Bậc biết tu Thiền nên nhớ: Thiền chủ yếu phát sinh Trí Tuệ, Trí Tuệ phá mê chấp. Nhưng Đạo Hạnh Đức Tính là căn bản cho bậc tu. Bậc tu có Đạo Đức, có Hỷ Xả bao nhiêu thì mức tu Thiền lên cao bấy nhiêu, không mừng rỡ chấp nhận, trong khi tọa Thiền bị theo biến diễn đủ cảnh rất nguy hại. Bằng thung dung bình dị bao nhiêu thì mức Thiền cao lên bấy nhiêu. Nếu chấp nhận ngỡ mình thành PHẬT THÁNH TIÊN thì mức Thiền liền đứng không tiến lên được, nhiều lúc trở nên Điên Khùng do Đức Hạnh kém chớ không phải do tu Thiền mà bị như thế, đây chính là một yếu tố tu Thiền rất quan hệ nên ghi nhớ.

THIỀN BIẾN DIỄN MÀ BẬC TU THIỀN KHÔNG CHẤP

Khi bậc tu Thiền, đang tọa Thiền nên xả hết tư tưởng lúc tư tưởng sạch, chẳng còn Ý Thức Tạng Thức làm chủ nơi Thân LỤC ĐẠI rỗng rang liền có pháp THẦN ĐẠO liền kế nơi Thân, làm cho Thân đang ngồi diễn ra nhiều tuồng như: Toàn Thân xoay chuyển, đưa tay bắt ấn, hoặc đầu quay ngưỡng lên hay cúi xuống, pháp Thiền nó tùy theo từng bậc, tùy theo Đức Tin, tùy theo Tánh Tình, tùy theo các Đố Tật, tùy theo Nghiệp Lực, đôi bậc nó bắt lạy, bắt bò lết, trăm nghìn cách phiên diễn nó là phụ tá tiêu biểu cho Đức Tánh của bậc tu Thiền, xấu tốt nó đều diễn ra trong lúc công phu.

Nếu bậc biết thời cứ mặc nhiên để nó diễn, khi rảnh giờ công phu bên ngoài đối xử với bạn bè trong các giới thân cận hòa nhã,gặp một vài hoàn cảnh trái ngang nên cổi giải làm cho Thân Khẩu Ý được thư thái, hằng ngày tạo phước đức bao nhiêu thời đêm sau tọa Thiền pháp thiền liền di chuyển lần qua pháp TIÊN ĐẠO để liên kết với Thân, còn pháp Thần Đạo lặng lẽ, đó chính là bậc tu đã nhiếp thâu được pháp Thần Đạo, cũng như nhiếp thâu một cõi Thần vậy. Pháp TIÊN ĐẠO bắt đầu di chuyển trong Thân nhiều lúc nhìn thấy cảnh Tiên trước mặt, mây giăng ngũ sắc hoặc hào quang chiếu sáng, hay tiềm thức bay giữa hư không, đối với pháp Tiên Đạo diễn tuồng cũng tùy theo Đức Tánh, Đức Hạnh và Nghiệp Cảm mà thành kể không hết nỗi.

Lúc bấy giờ bậc tu Thiền chớ nên chấp nhận cứ gìn giữ Đạo Hạnh như trên đã nói, lần lượt pháp Thiền nó cứ diễn, nào là MA ĐẠO, QUỈ ĐẠO, QUÁI ĐẠO, từ tịnh bất tịnh luôn phiên thuyên diễn cho hết tất cả chủng tánh của các loài trong Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới nầy cốt để cho bậc tu Thiền tỏ rõ, nếu tỏ được Chủng Tánh của một Pháp Thể, một tánh của một cõi thì đã hàng phục được một cảnh giới hay một cõi vào THÂN TÂM, khi đã nhiếp thâu khá nhiều liền sở đắc PHÁP THÂN PHẬT. Lúc bấy giờ mới biết đặng trong Vũ Trụ và Nhân Sinh đều một. Vũ Trụ là Cái Dụng của Nhân Sinh, còn Nhân Sinh là Cái Dụng của NHƯ LAI TẠNG.

Phần tu Thiền trên được gọi là Mật Tôn, Mật Tôn nằm trong NHƯ LAI TẠNG giúp cho bậc tu, từ Hiển Giáo đến Mật Giáo rất hoàn mỹ. Bậc tu Thiền vừa có Mật Tôn, gọi là Thiền Mật song tu. Khi Giác Ngộ biết tỏ rõ các cõi Tiên Thần, khi chưa biết gọi là Huyền Bí, nó chính là con đường minh định một Chân Lý tuyệt đối lúc bấy giờ không còn lấy một nghi liền giải quyết vũ trụ nhân sinh hoàn mỹ.

Đối với Nhân Sinh cùng Vũ Trụ không thể nào tìm phương giải quyết được chỉ trừ Giác Ngộ mới giải được, bằng chưa giác ngộ thì giải quyết bằng cách nào vẫn phải vòng quanh trong LỤC ĐẠI.

Chẳng khác nào kẻ nằm chiêm bao, nói chuyện trong chiêm bao thì làm sao cho đặng? Trừ tỉnh giấc chiêm bao chừng ấy khỏi nói, khỏi giải đương nhiên nó giải./-

TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN

12. PHÁP ĐẢNH NHƯ LAI TẠNG

Nói đến PHÁP ĐẢNH NHƯ LAI TẠNG là bậc đã làm Vua các Pháp, Sở Đắc dung thông bao gồm hàm chứa Tạng Thức của Chúng Sanh, từ SẮC, VÔ SẮC thảy đều sắp xếp thứ tự trong Như Lai Tạng. Bậc ấy thật biết các pháp tỏ rõ, biết thể tánh di chuyển, đi lại đổi thay biến diễn. Sự biến diễn ấy làm cho tất cả chúng sanh lầm lẫn thọ chấp trở thành thứ bậc vướng trong Bản Ngã TU CHỨNG trong hàng Tứ Thánh, ngoài ra có vô số Cảnh Giới, vô số các Cõi TIÊN THẦN trong ngoài Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới. Cứ mỗi một pháp lầm chấp là một chúng sanh mang thân lầm chấp, cứ mỗi một pháp lầm chấp là một cảnh giới nên hình để cho hằng hà sa số chúng sanh đồng chấp an trụ. Bậc Pháp Đảnh Như Lai Tạng thật biết: Nó nghĩ thế nào nó thành tựu thế ấy, nó tự tạo rồi nó tự lãnh lấy cảnh giới, vì vậy nên nó phải bị trong Hàm Chứa của NHƯ LAI TẠNG.

Tất cả cùng tất cả không hay biết ngỡ mình có một Phước Đức công năng sở đắc Chân Lý cùng tột, nên tự mãn dung dưỡng Bản Ngã, lại khoe khoang vô thượng. Nhưng chính thị vẫn mơ màng nghi nan thường tưởng đến định tưởng của nguồn gốc Tạng Thức. Vì sao? Vì chưa rốt ráo tỉ mỉ tỏ rõ Bản Thể Tâm nên chưa làm chủ Như Lai Tạng, thì làm sao không bị Tạng Thức bao trùm trong Hàm Chứa.

Đối với Như Lai Tạng là kho Tạng dung chứa tất cả các pháp, từ hạt bụi vi trần, đến cảnh giới hay triệu triệu các cõi, trong hàng vô số chúng sanh thảy đều nằm trong cương tỏa hàm chứa, một khởi nghĩ hay không khởi nghĩ, một chấp nhận hay không chấp nhận, đều sắp xếp thứ tự không sai chạy hoặc mất mát mảy may nào cả.

Nơi Như Lai Tạng là một Hàm Chứa, nhưng nó có một đặc điểm hai pháp mà các bậc tu hành khó giải sanh nghi chấp chưa minh định được.

Một là SẮC, hai là VÔ SẮC, nếu Sắc thời nó sẵn có thể tánh của Sắc. Vô Sắc thời nó vẫn có thể tánh của Vô Sắc.

Chúng Sanh vẫn đồng chủng tánh của Như Lai do sai biệt bởi khởi vọng trở thành Tạng Thức. Khi đương thời thì Thể Tánh của Như Lai trùm khắp, Phước Tuệ như một cơn mưa, Phước Báo như một biển cả. Lúc lầm mê thì thể tánh của Như Lai kia bị phân phối nên Phước Tuệ và Phước Báo nhỏ tựa như hạt sương trong mùa Thu lạnh hay bọt biển trên sóng đua bơi vậy. Từ Như Lai xem xét tỏ rõ không thiếu sót vô tận, còn chúng sanh bé nhỏ nên không thể nào mà biết đặng Như Lai. Cũng như Biển kia biết tất cả các con sóng, chớ sóng nào có biết đặng Biển đâu. Chúng sanh thì bị biết có hạn lượng nó không ngoài Sắc Pháp, suy tính chẳng ngoài Tạng Thức, nếu không có Tạng Thức và Sắc Pháp thì chưa biết.

Khi chúng sanh chiêm ngưỡng hồi hướng tu cầu Tri Kiến Như Lai đặng thoát khỏi vọng đảo Tạng Thức, chúng sanh phát Bồ Đề Tâm Nguyện, tất cả tinh thần nương vào Công Đức của Như Lai để thề nguyện Sự. Vì sao phải lấy Công Đức để cầu Như Lai nguyện? Vì Phước Tuệ và Phước Báo bé nhỏ như hạt sương, nên tu hành trên CÔNG NĂNG và ĐẠO ĐỨC chẳng thọ chấp gọi là Công Đức Cúng Dường Như Lai. Chẳng khác mấy chư Bồ Tát hành thâm thu nhặt từng hạt sương để tạo nên công đức trùm khắp như cơn mưa Bảo Pháp, Biển Cả của Pháp Tạng Như Lai vậy.

Bậc tu hành vẫn có một số tìm đặng Chân Tánh để mà tu, cốt cổi giải từ nơi Bị Biết để đoạt đến Tự Biết, lại tiến thêm một bước nữa liền tự hỏi? DO ĐÂU CÓ CÁI BIẾT? Đối với các bậc đang bị biết thời không thể chỉ hoặc nói do đâu có cái biết. Vì sao? Vì duy chỉ có đoạt đến Cái Biết tận cùng làm chủ Cái Biết mới biết đặng Cái Biết do đâu thôi, ngoài ra hãy còn đang bị chứa nơi hàm chứa của Như Lai Tạng làm thế nào diễn nói đặng Cái Biết.

Vì trót mê lầm nhận tưởng theo tưởng, cố định nung đúc trở thành thường nhiễm mà chịu làm Chúng Sanh, nơi Biết không ngoài Tạng Thức, trở nên Giới Hạn, chớ trước kia chưa lầm còn trong thời Nguyên Thể, không có giới hạn, tuy nhỏ bé chẳng bằng với Như Lai nhưng sự thông đạt không kém mấy, vì sao? Vì nó vẫn Vô Hạn Lượng, lúc ấy cứ an nhiên bình dị một thời gian tỏ ngộ Như Lai Pháp Đảnh. Ngặt vì chủng tánh kia lại khởi so tính phân biệt nên bị biệt trở thành TẠNG THỨC, từ Tạng Thức dị chủng tương ứng đồng hóa HƯ KHÔNG, nơi hư không hiệp chung Tạng Thức mà có Sắc, Sắc vốn là Pháp, Pháp vẫn là Sắc không sai khác nên gọi là SẮC PHÁP.

Do đó cái biết không ngoài Sắc Pháp, Xúc Cảm đặng cho biết, khi đem đến để biết, thì đương nhiên bị biết, lúc bị biết pháp sanh đặng biết, pháp diệt chưa biết, phải nhịp nhàng trong sanh diệt để mà biết. Nhưng vốn thể tánh của pháp thì thường diễn ra Sắc, Vô Sắc thay đổi không ngừng, tạng thức như mũi tên bay, vì vậy nên chi trong ý nghĩ mãi đưa đến, xong lại mang đi, làm cho có nơi mong cầu của chúng sanh để có nơi Phước Báo và Chịu Báo trong vay trả, trả vay in tuồng như thật mà thọ chấp trong giai đoạn thường lầm lại thường nghĩ tưởng chúng sanh ưa muốn hoặc mong cầu không ngoài Sắc Pháp Tạng- Thức trở thành Cảnh Giới mà an trụ Chánh Báo Chịu Báo gọi là Tương Báo.

Nên Phật nói: “Nó nghĩ thế nào, nó muốn thế ấy, nó tự tạo mà thành tựu như vậy, chớ chẳng ai ban cho nó, nó lại ngỡ là ban cho nên nó cầu khẩn van xin. Chính tại nó chưa biết lầm nhận như vậy, phải chịu như vậy để sanh tử luân hồi.”

Khi đang mê lầm phải ở nơi Bị Biết vọng đảo, dù cho bậc ấy tu hành nhất tâm cầu Tri Kiến Giải Thoát, thì nhất tâm kia nó vẫn đang nằm nơi vọng đảo bị biết, chớ chưa đến mục tiêu Chánh Biết sở cầu như ý nguyện, cũng phải tu hành trong một thời gian tiêu sạch mê chấp đảo vọng thì chừng ấy mới bước vào dòng Như Lai để tu đến kết quả Tri Kiến Giải Thoát.

Như trong thời hiền kiếp còn Đức Phật tại thế, Ngài dạy chúng sanh TIN PHẬT liền thành Phật hay NIỆM PHẬT đặng thành Phật. Trái lại chúng sanh càng tin Phật hơn thế nữa, hoặc niệm Phật hằng hà sa số niệm, nhưng mấy ai đã thành Phật? Đối với Phật chính là bậc Chánh Giác Ngài dạy rất đúng. Khi chúng sanh đang ở trong Tạng Thức bị lầm độc dược điên loạn thời có Tin hay có Niệm chăng cũng không ra được vòng cương tỏa của mê lầm. Lúc Tạng Thức chẳng còn mê mờ tan dẹp liền thấy biết CHA LÀNH ĐỨC PHẬT đón chờ thì vừa khởi niệm khởi tin liền thành Phật, đó là một yếu tố chân thật như lời PHẬT dạy.

Trong thời nầy sự tu hành nhiều bậc nhất tâm cầu đạo, nhưng tiếc rằng thiếu bậc Lãnh Đạo Cơ Giác giảng giải rành mạch để đưa bậc tu đến Tự Giác. Bậc lãnh đạo đang Bị Biết chỉ dạy bậc tu Biết để mà Bị trong vòng Thọ Ngã loanh quanh phát sinh Dị Biệt màu sắc, do đó gọi là Mạt Pháp, chớ PHÁP TẠNG chân truyền chẳng bao giờ mạt!

Bậc nhất tâm tu cầu TRI KIẾN GIẢI THOÁT, dù bậc ấy có hiểu biết nhiều ít hoặc tự tánh tỏ tánh, luôn luôn đưa mình trong con đường tu lấy Tự Giác làm căn bản chăng, hoặc giả thông đạt các pháp diễn nói tựa như Phật đi nữa thì lại càng suy xét nghiền ngẫm soi khắp các pháp cho thật chí lý tận cùng để mà tỏ ngộ, chớ chẳng phải tận cùng để thọ chấp. Đó chính là nương theo Vô Ngã hồi hướng Công Đức. Bằng nương để soi biết chí lý tận cùng, liền bất chợt Quán hay Định để giải quyết mục tiêu Sở Đắc, hoặc giả quán Vô Sắc để Diệt Sắc hay Dụng Sắc đặng Chánh Báo rực rỡ trang nghiêm Quốc Độ Tịnh Độ, trong trăm ngàn đem đến để mà giác tỏ, thảy đều vướng bị không Chấp, nhưng vẫn chấp Không vậy.

Bậc tu cầu Tri Kiến Giải Thoát nương theo Vô Ngã cầu lấy Công Đức sung mãn, cầu lấy giải mê phá chấp, cầu lấy Trọn Biết để tròn duyên tròn chí nguyện, đó chính là cầu Tri Kiến Giải Thoát. Bằng cầu nổi danh, cầu Chánh Báo trong mọi hình thức, cầu thuyết pháp theo ý muốn, theo thỏa mãn lời mình nói mà chính mình chẳng biết mình đã nói để đưa cho bậc hiểu biết những gì, không có mục tiêu, đó chẳng phải nương theo Vô Ngã mà là Bản Ngã, tu Thọ Ngã chẳng có Công Đức chi lại làm tự mình mang thêm lầm lẫn mơ màng phải dùng định tưởng Tạng Thức.

Bậc tu nhận nơi Công Năng tự giác Đức Độ bao trùm nương theo Vô Ngã để cầu Tự Biết, thời bậc ấy có thể biết Vạn Pháp do Tâm Sanh, Tâm phân biệt phóng đạt tối sáng không ngừng là TẠNG THỨC, tạng thức tư duy suy nghĩ gọi là DUY THỨC, mà tạng thức eo hẹp nhỏ nhen phàm phu thường dụng thì nó là Ý THỨC. Từ Ý Thức đến Duy Thức cùng Tạng Thức thảy đều một gốc, nhưng mỗi tác dụng khác nhau trở thành ba văn tự, nếu chấp văn tự nào thời chỉ dùng có một trong ba thôi. Bậc nương theo Vô Ngã để tỏ rõ thì trong ba văn tự đồng biết cho đến thật biết rất có lợi vô kể.

Vì vậy nên chi bậc tu hành không chấp pháp thì bậc tu ấy được tu pháp THƯỜNG CHÂN. Bằng tu mà chấp pháp thời pháp ấy chẳng thường chân mà bị chấp pháp. Cũng như: Kẻ thường đi phải đến, năng biết để mà trọn biết. Còn kẻ chẳng đi thời phải đứng, đứng nào có đi? Chấp Pháp cũng thế, vì đang bị biết tu cốt giải nơi Bị Biết đừng chấp pháp, nếu tu mà chấp thà rằng chưa tu là hơn.

Từ bậc kém trí tuệ tu hành trong một thời gian nương theo Vô Ngã, phát Bồ Đề Tâm Nguyện hiểu đặng ích lợi của Tự Giác liền trở thành ĐẠI TRÍ, Đại Trí chính là một trí rộng rãi thân tâm chẳng còn ích kỷ, vừa tu cho mình lại vừa cứu giúp kẻ khác, tỏ lòng Bi Nguyện bình đẳng đối với tất cả.

Khi đã thực hành Bình Đẳng liền sở đắc Bình Đẳng Tánh Trí, bậc như vậy không còn gìn giữ bình đẳng mà nó vẫn thi hành thực tại bình đẳng. Từ đó mới kiểm điểm các pháp nơi nào là nơi Tự Biết, chốn nào là chốn Bị Biết, giữa Vũ Trụ và con người nó có liên hệ chi chăng? Giữa mình và tất cả mọi kẻ nó có bà con giòng họ chi để quan sát thật biết chẳng còn nghi ngại, ngăn chấp thành kiến trái phải, lần lượt Đại Trí kia mở thông đỉnh đạt gọi là DIỆU QUANG SÁT TRÍ. Lúc bấy giờ lại có một Trí Tuệ thích ứng, ít tự ngã chẳng còn tu cho người, mà chính là tu cho mình. Vì sao? Vì giác mê nầy chính tại mình mê, chớ vũ trụ và mọi kẻ đâu có mê? Nếu mọi kẻ và vũ trụ mê, thì làm sao ngoại cảnh đưa cho mình, cùng các chư Tổ, chư Phật Giác Ngộ? Khi ấy Trí Tuệ mở thông bao nhiêu nghi chấp thảy đều tỏ giải, chẳng còn dùng Trí Tuệ nữa mà chỉ dùng Tự Biết Để Biết. Một thời gian biết tất cả, đồng cảnh đồng trí liền có một đồng trí suy xét trong cảnh trong trí, vui buồn sướng khổ như nhau chẳng sai biệt, không phân giữa Phàm hoặc Thánh đều như một, liền Sở Đắc NHỨT THIẾT TRÍ, tức nhiên một Trí đồng một Cảnh, cảnh và trí duy nhất, chẳng phải phàm phu riêng chịu, mà Thánh độ sanh đồng chịu một TRÍ.

Đó chính là một con đường duy nhất, Chư Bồ Tát Hạnh Nguyện đang làm, bậc Đại Trí nương theo để làm, quyết định đưa chúng sanh phá các ngăn chấp dị biệt thường cách, bị biết để chúng sanh duyên khởi nguyện, đặng phương tiện cho chúng sanh tu tập Tự Giác Tự Biết, đến phát nguyện Thật Biết mà thành tựu Công Đức cúng dường Như Lai, tu cầu Diệu Quả. Tất cả thảy đều nương theo Vô Ngã mà sở đắc các pháp TAM MUỘI, nhập vào Chánh Định Tam Muội tận biết chu đáo sự kín nhiệm của Như Lai Tạng. Khi chưa biết gọi là kín nhiệm, đến lúc tận biết thời Như Lai nào có sự kín nhiệm? Đặng trọn biết, giữa Mật Thể và Giáo Thể đồng nhất song tu, tướng tánh duy nhất chẳng sai khác.

Đối với PHÁP TẠNG chân truyền nó có một hệ thống di chuyển quyết định, tuy nơi TU CHỨNG chẳng quyết định, nhưng phải chung gồm đầy đủ, mới thành tựu viên mãn. Bằng tu Hiển Giáo chẳng Mật Giáo, hoặc Mật không Hiển thời cả một vấn đề chênh lệch. Cũng như chưa DIỆU QUANG SÁT TRÍ, BÌNH ĐẲNG TÁNH TRÍ mà đòi giải thoát thì cả một vấn đề tham nhũng, chẳng khác nhiều bậc tu phá chấp chưa Đạo Hạnh thuần túy lại vọng tưởng Niết Bàn, quan niệm Giải Thoát thật là một con bệnh giải thoát trong thời 2.516 năm Phật Lịch.

Bậc tu qua từng lớp đến tận biết, từ Phàm Phu Trí đến Thánh Trí chan hòa, chẳng phàm không thánh, để thành tựu Nhất Thiết Trí mà đoạt BẢN THỂ TÂM, tỏ tường tận biết từ mỗi một pháp. Ví như: Biển Cả kia biết sự linh động thể tánh của sóng, biết từng con sóng, từng bọt nước nơi biển cả của mình. Đối với bậc tu biết từng tạng thức thể tánh linh động ra sao? Biết bao nhiêu chúng sanh lầm chấp đặng Chánh Báo Thọ Báo thế nào? Các pháp lưu hành di chuyển xong nó trả về đâu? Thật tỏ còn tỏ hơn thế nữa, đặng làm vua các pháp, đặng làm Chân Tôn đầy đủ Mười Danh Hiệu thọ ký PHÁP ĐẢNH NHƯ LAI.

Chẳng khác mấy: Đứng nơi giai thế Bọt Sóng, nó thường trôi giạt trên mặt sóng. Nếu bọt kia nó biết, vốn thể tánh của phần sóng nó phải linh động, thì bọt nó không ngạc nhiên chi cả. Bậc tu hành nếu biết đặng chính mình trót lầm mê nơi biển pháp Tạng Thức, thì nó phải di chuyển xoay chiều linh động chẳng bảo nó ngừng mà nó thọ chấp miễn trôi giạt theo để soi biết đó chính là bậc biết tu trong pháp Động để Giác, một thời gian Hoàn Lai nó chẳng khác nào:

Biển Cả kia biết tất cả bao nhiêu con sóng, bao nhiêu bọt, bọt thì nó hằng hà sa số đồng hiệp đồng hóa, bất hiệp bất hóa, nó bất tăng bất giảm, bất cấu bất tịnh, nó vốn nương nhau, vì thể tánh của nó. Biển chẳng cho nó là Sắc hay không Sắc, biển chẳng nhìn để Nghe-Thấy-Biết đặng phân ý mà phải chịu nằm nơi Tạng Thức Giới đi trong sanh diệt cấu tịnh của vô ích. Bậc tu đến Nhất Thiết Trí cũng chưa đủ, nó phải tận biết sở đắc NHƯ TRÍ nương theo BỔN NGUYỆN mà PHÁP ĐẢNH NHƯ LAI cũng như làm BIỂN cũng chưa đủ, phải làm CHỦ của cái biển mới đặng trọn./-

TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN