VÔ SƯ KINH

THỊ HIỆN CƯ NHÂN

1 - Bậc tu xem hoặc hiểu biết được kinh VÔ SƯ, thời trước nhất đã từng TIN - VÂNG 48.000 Thiện Tri Thức để học mới vào đặng chốn VÔ - SƯ
- Bằng chưa bao giờ học hỏi 48.000 Thiện Tri Thức mà tự hào hoặc có một quan niệm chẳng cầu học ai, thì vô tình hay cố ý đã tự phản mình, tự đem mình đến nơi không hiểu KINH VÔ SƯ, nếu đem ý chí cho kinh này là Lý hay Lý Luận, Triết Học, Triết Lý cùng Tâm
Lý hoặc thuật xử thế, thời KINH này sẽ cung ứng theo ý chí trên.

2 - Ta tự gán cho vạn vật cùng nhân sinh là Khách - Quan thì vạn - vật nhân sinh cũng đủ quyền cho ta là Quan - Khách
Bằng ta công nhận Vạn - Vật Nhân Sinh là bà con dòng họ mật - thiết thương yêu, thì nó sẽ đưa ta chạy trong vòng Sanh Tử Luân Hồi.
Nếu ta cần biết rõ Vạn - Vật Nhân Sinh thời nó lại giao - cảm biết ta, giữa đôi bên thoải mái đem đến CHÂN - THIỆN HOÀN - LAI.

3 - Ai cũng có cái Không Nghi cùng cái Nghi, có cái Nghi có lợi cho ta, cũng có cái Nghi rất hại cho ta.
- Nghi – Chấp để Phá-Chấp đến nơi thật biết, không nghi, rất có lợi.
- Còn Nghi để mà chấp rất có hại, nếu đương nhiên không nghi thời khờ khạo, bậc đừng tu còn hơn bậc tu nghi chấp, gọi là Chấp- Pháp.

4 - Ta có quyền nghi vũ trụ cùng nhân sinh để mà khám phá vũ trụ nhân sinh, đó chính là một đặc điểm phát Tuệ. Ta nghi vũ trụ cùng nhân sinh để tránh né chấp nhận là Ác - Thế, củng cố rời bỏ vũ trụ nhân sinh, thật là một điểm nguy hại vô kể.
5 - Tất cả lời ta thuyết giả nó không thể làm cho ta nhận biết chu đáo. Nó có thể đưa ta đến một mức nào đó đặng ta thực hành mới thật biết. Nếu ta có quan niệm thuyết giả đã tận biết tỏ rõ mà không thi hành những điểm đã thuyết, thì không khác mấy kẻ khùng nói trong mơ.
6 - Ý nghĩ cao cả là một điểm rất tốt, lại trong nhiều người sẵn có.
- Gặp trường hợp hay hoàn cảnh biết đối xử cao cả thì rất quý, hiếm hoi, ít người làm được.
- Bằng ý nghĩ hoàn cảnh cùng cơ hội đều cao cả thực thi đặng, gọi là Thánh Nhân.
7 - Bậc Trí Tăng biết thích quý lướt qua các trở lực, đặng cầu quả vô thượng. Bậc Phàm tăng tránh né các trở lực đặng cầu quả thanh Tịnh Tâm, đó là một điểm lầm truyền kiếp.

8 - Bậc Tu chủ yếu biết rõ Vô Minh mới gọi là Tu. Bằng tu để tu, không biết vô minh, thời tu đến vô số kiếp chăng nữa, cũng không được lấy một ngày tu.
9 - Kẻ xuẩn dùng bản ngã để nâng mình, đến mà chẳng đến. Bậc Trí dùng đạo đức để nâng mình, chẳng đến mà đến.
- Chấp Pháp là bản ngã.
- Hỷ Xã là đạo đức.
10 - Kẻ mê lầm mong cầu bờ giác ở phía bên kia nên xa lánh chốn phàm phu, đó là một câu chuyện sai lầm muôn kiếp.
- Bậc Chân Tánh cổi giải tâm mắc miếu trước hoàn cảnh để cầu hiện giác, đó là một lối duy nhất của Thánh Tăng muôn thuở.
11 - Đứng nơi cơ bản con người học làm người thật khó. Nếu muốn học làm người, thì hãy học làm Thánh đi, đương nhiên rõ biết làm người. Cũng như: Tự mình nhìn tròng con mắt của mình thì không thể nào nhìn thấy. Nên nhìn tròng con mắt kẻ khác, liền tự biết con mắt của mình.
12 - Khi ta viết một bài hay hoặc một lời nói nơi ta giỏi, nó cũng chưa hẳn là của ta, lúc ta gặp trường hợp khó giải ta hãy bình tĩnh giải hay thi hành giỏi mới thật là của ta.
13 - Bậc dùng Bi - Trí - Dũng, Giới- Định - Tuệ lần phá bờ ngăn nơi chấp trước mọi hoàn cảnh để cầu diệu quả Bồ - Đề. Đó chính là bậc biết áp dụng nơi trăm sông để thành một biển.
- Bằng cố chấp trước mọi hoàn cảnh đặng dung dưỡng phần mình và quan hệ thì vô tình hay cố ý tự xây thành kiên cố tự nhốt mình vào trong.
14 - Bậc tin Phật, nhưng ít khi nghe theo lời Phật dạy, chỉ tin nghe theo cái muốn nơi mình.
- Bậc thuyết đạo ít khi làm theo lời đạo, chỉ làm theo ý chí của mình. Nếu nơi tin cùng việc làm y như một thật là quý vô kể.

Ai cũng mơ ước ngày mai đem đến sự may mắn và cái sống đẹp. Vì vậy trong thời hiện tại có cái sống đẹp, sự may mắn, nó chẳng chịu dùng đến. Để nó trôi qua rồi đâm ra hối tiếc, tự trách mình khờ dại......rồi lại mong chờ cái sống và sự may mắn ngày mai. Cứ chờ...cứ mơ mãi đến vạn kiếp không ngừng. Vì chẳng chịu biết sống hiện tại của hiện tại là một nơi sống đáng quý giá.
15 - Bậc tu chỉ có biết nhận và chưa biết nhận. Biết nhận thời đắc chân lý, bằng chưa biết nhận hãy còn tham vọng, đó chính là điểm duy nhất.
- Kẻ bãi bỏ tham là một điều đáng quý, bậc xét suy nơi vọng đảo còn nhiều ít mà hiểu biết tham sân của mình, thật là hiếm có.
16- Bậc có ý niệm ưa nghe pháp cao, nhàm nghe pháp thấp, thời bậc ấy chưa nghe hoặc nơi nghe còn cạn cợt. Bằng cho pháp này cao hơn pháp nọ thời chính bậc ấy chưa biết pháp.
- Bậc biết pháp vốn bình đẳng, mỗi pháp có một tác dụng, nên gọi nó giống mà chẳng giống. Thời bậc ấy xâm nhập Phật Pháp.
17- Đốn giáo để tiến trình độ. Tiệm giáo đặng thâm nhập Tỏ Giác. Bậc tu biết nó chung chớ chẳng riêng. Đó chính là bậc đã thi hành thực biết.
- Bằng nói tôi chỉ tu đốn chớ chẳng tiệm, đó chính là tự mình phản mình vậy.
18- Bậc giàu sáng kiến nghi chấp để phá chấp, bậc ấy rất có lợi. Bằng giàu sáng kiến nghi chấp đặng chấp nhận nơi nghi, gọi là nghiệp.

19- Bậc có tài trí chừng nào lại lâm vào cảnh nương chìu vợ chừng ấy. Kẻ vô tài kém trí lại đặng vợ nương chìu, đó chính là một lẽ dĩ nhiên thường vấp phải. Bậc biết công nhận hai lối trên thì bậc ấy đã từng biết.
20- Đối với chân lý, nó chỉ biết nhận cùng chưa biết nhận thôi. Nếu biết nhận thì sự nghe thấy biết được viên thông chân lý. Còn bậc chưa biết nhận không khác mấy với bậc nghe tiếng sáo ở đầu non.
21- Kẻ có sáng kiến, kẻ ấy mới giàu sáng kiến sâu đậm rộng rãi, bằng chưa sáng kiến thì sự hiểu biết nông cạn kém cỏi, gọi là mơ màng nghiệp thức.
22- Kẻ biết dùng đốn giáo để bước lên thứ bậc, ngộ được thứ bậc kẻ ấy lại dùng tiệm giáo để nuôi dưỡng Ngộ Nhập, đó gọi là bậc khéo tu. Bằng nói Đốn Tiệm tiến thủ riêng biệt, bậc ấy chưa biết đường tu.
23- Duyên đồng hợp đồng hoá gọi là cơ duyên của Ứng Thân Hiện Thể để hoá độ chúng sanh, nên Phật mới nhập Niết Bàn. Chớ chính Phật không hợp không hoá, không nhập Niết Bàn, không trụ của tướng pháp thường còn đâu biến.
24- Chân lý là cái gì? Chân lý nó không đứng vào một khía cạnh nào, nó đứng chung gồm tất cả mà đặng trọn biết tất cả, dó chính là chân lý. Nếu đứng vào Triết Học mà tìm chân lý, thì nó là triết học chớ chưa hẳn là chân lý. Bằng đứng vào triết lý, khoa học,.v.v...mà tìm chân lý thì nó là triết lý, khoa học,.v.v...mà thôi.
25- Bậc cả một đời tìm chân lý thì một đời tìm chân lý. Bậc lượm lặt chân lý thì một đời lượm lặt chân lý. Nếu suy nghĩ để tìm chân lý mà chưa nhận được, thì một đời cũng chỉ suy nghĩ thôi, chẳng nhận được. Duy chỉ có đức tin thiện tri thức mà biết thôi.
26- Kẻ đem vô minh đến cho ta, ta không nhận thì vô minh ấy sẽ trả về cho kẻ đem. Nếu kẻ nguyền rủa ta, ta không nhận thì sự nguyền rủa ấy sẽ trả về cho kẻ đã nguyền rủa.

27- Bậc nghe pháp cầu hiểu, chớ chẳng cầu nhớ. Cũng như người ta ăn chỉ cầu ngon nếu ta biết ăn, biết no. Chớ chẳng cầu nhai mãi đồ ăn trong một thời gian. Nghe pháp cũng vậy.
28- Kẻ cuồng si ưa lời nói cao siêu mà dự đoán nơi mình mà hưởng. Bậc trí nghe một lời nói, tu đặng thấu tỏ chốn cao siêu.
29- Ép người làm lành, người khó làm lành, duy để người hiểu biết sự lành, người sẽ làm lành, vì người biết sự lành là quyền lợi của họ.
30- Người đời ai cũng ưa thích tự do, nếu ta đặt họ vào khuôn khổ tu hành thì họ sẽ chán ngán, phải nương vào mọi người cho họ hiểu biết sự lợi tu hành là tự do duy nhất để họ tự đặt ra lối tu theo sở thích của họ, miễn sao ác - tưởng được đổi sang thiện - căn. Đó là mục tiêu chính khỏi đoạn duyên Phật là được.
31- Bậc tu mong cho mình được giải thoát, thì không bao giờ giải thoát. Cũng như mong đòi quyền lợi chân thiện hoàn lai của mình mà không sao vào Lai Hoàn Chân Thiện vậy.

32- Ác tưởng luôn luôn nó đến với bậc trí để bậc trí sáng soi, lột trận ác-tưởng mà đoạt đến Thánh trí.
- Ác tưởng đến với kẻ xuẩn, kẻ xuẩn cố xua đuổi cầu thanh tịnh, thời chẳng bao giờ đoạt đến Thánh trí mà chỉ đoạt đến tịnh biệt.
33- Bậc tu hết sợ các pháp thuyên diễn, đó chính là bậc tỏ thấu pháp. Bậc tu làm cho mình hết sợ các pháp, đó chính là bậc gàn xuẩn.
34- Phật pháp biết dùng thời mới tìm đặng lẽ sống, bằng chưa biết dùng thời vẫn chưa tìm dặng lẽ sống.

35- Bậc đại trí đứng vào hoàn cảnh thường diễn, liền biết các hoàn cảnh là thường, nên tâm không quái ngại, được đến thường còn. Kẻ thiếu trí không nhận được hoàn cảnh thường diễn nên nhu cầu mong ước sự bình an khi hoàn cảnh đến; mừng, buồn tủi nhịp nhàng nên đi vào
thường thiếu trí.
36- Bồ Tát biết rõ các pháp thường diễn nên đắc chân thường, do đó Bồ Tát mỗi ngày được phát sinh trí huệ phước báo muon thiên, tâm không quái ngại, đứng vào pháp mà được Chánh Giác, kẻ phàm phu tránh né các pháp, tìm nơi an trụ huân tập, thu nhiếp, phải sa vào tịnh biệt, để trầm ngâm trong biển lặng.
37- Bậc đại trí an hưởng nơi chánh tín của muôn phương nên trở thành Chánh Giác. Kẻ thiểu căn ưa chuộng chánh tín của một đường dây nên thành đồ chúng phe phái trong sanh tử.
38- Muốn đoạt đến Thánh trí sự nghe thấy biết dược viên thông, các Chân Phật Tử hãy chánh Tín vào lời Giáo Ngôn của Ta, vào nơi bác ái, độ lượng, hỷ xã nơi Ta, thời bậc ấy bước vào Thánh Trí mới nhận đặng ta. Bằng phàm phu tự ngã, tự kiêu, tự cho mình là đúng đắn, chỉ phê,
nghi kỵ, không lãnh được Giáo Ngôn, thì dù tu đến vạn kiếp vẫn còn vòng trong lục đạo diễn biến không ngừng.
39- Xưa ĐứcThế Tôn Ngài nói: ngón tay Ta chỉ mặt trăng, chớ chẳng phải ngón tay Ta là mặt trăng.
- Ngày hôm nay, Tôi nói:ở Phương Tây có hạt cam, Tôi chỉ bày để các ông đi tìm lấy hạt cam trồng mà đến thành tựu quả. Chớ chẳng phải Tôi nói là đem cây cam có sẵn cho các ông, lời giáo ngôn của Tôi cũng vậy.

40- Đã đắc chân lý cũng chỉ là lý chân thôi, chớ chưa pải là chân lý. Các người hãy nương vào chân lý để thành tựu sung mãn.Bằng chấp lấy cái chân lý vừa đến, cho là chân lý sung mãn thì thật là vô lý không bao giờ đến.
- Cũng như: kẻ hiểu được bên kia có hồ sen, nhưng chưa đến hồ sen. Đối với chân lý cũng vậy.
41- Bậc tu hành cho mình là phải thì bậc ấy chỉ đứng một phía của đạo thôi. Bằng bậc tu hành tìm biết được tất cả đều là phải, nó do một nơi nào mà có phải thì bậc ấy mới mong đến Phật.
42- Bậc tu hành biết hướng thượng đó chính là bậc sắp nương vào Tháng Tăng để cầu lấy giải thoát
- Kẻ tu hành chưa biết hướng thượng, thường lo cõi giải tâm, bậc ấy thường bị xoay vần trong lục đạo, chớ chưa phải là bậc nương vào Bồ Tát hạnh để thành tựu giải thoát. Bậc tu hành không nung chí hướng thượng thường vướng mắc nơi Tâm, dễ bị Ngạ Quỷ, Súc Sanh, Địa Ngục lôi kéo. Bậc tu hành nên nung chí hướng thượng, được thoát trần lao, khỏi sao ba đường ác.
43- Bậc Đại Trí, Thánh cũng không thẻ soi được, Phàm cũng không biết nổi. Đó chính là Bậc Đại Trí Tối Thượng. Bằng Thánh biết, Phàm né, cũng chưa phải là Tối Thượng.
44- Bậc Trí không muốn bày ra công việc làm, nhưng đến công việc làm thì biết công việc làm.
45- Bồ Tát đi nơi hữu ngã mà thành vao ngã. Phàm phu đi rong vô ngã mà thành nhữu ngã.
46- Kẻ nghĩ đứng và sai, sai và đúng, thì không bao giờ đúng được. Bậc chẳng nghĩ mà làm, lấy cái làm thấy cái đúng, đó mới đúng.

47- Bậc cho ngọc, kẻ lãnh ngọc. Bậc lãnh ngọc biết cái giá trị của ngọc thời mới quý bậc cho ngọc. Bằng kẻ lãnh ngọc không biết cái giá trị của ngọc thời đâu có quý bậc cho ngọc, cũng như:
- Kẻ nghe pháp thi hành chuyên chú tu tập mới biết Phật Pháp là quý, Bằng kẻ nghe Pháp không thi hành chuyên chú tu tập thì pháp ấy cũng bằng thừa, làm sao báo ân Chư Phật được.

48- Bậc tin Phật phải là bậc biết pháp, Bậc tin Phật phải là bậc hiểu Pháp, bậc tin Phật phải là bậc tỏ pháp mới gọi là tin Phật. Bằng chưa biết, chưa hiểu, chưa tỏ, thì dù có tin Phật đến mấy chăng nữa cũng chưa phải là tin Phật.
49- Hành Dụng Như Lai Tạng diễn biến không ngừng, khi thuận hành thân Phật, khi nghịch nhiếp Như Lai để tận biết rốt ráo. Bậc như thế khó nghĩ bàn.
50- Bậc tu hành mong đến Bát Nhã phai tu cho thật nhiều, nói cho thật nhiều để tận biết cho thật nhiều, để quá biết liền vào Bát Nhã. Bằng chẳng tu, không nói, chưa biết, lìa tất cả đẻ vào Bát Nhã, thời nơi Bát Nhã đó chính là không nói, chẳng biết Bát Nhã. Thật khó đoạt đến Bát Nhã vậy.
51- Lời Ta nói đều là bánh vẽ, các ông hãy nương vào công đức sung mãn, đương nhiên bánh thật sẽ dén các ông.
- Bằng các ông nhận nuốt lời ta, chẳng chịu nương vào công đức sung mãn, thí các tự ăn bánh vẽ mà thôi, chớ chẳng đem được cái hữu hiệu cho các ông.
52- Chân lý là một cái bánh vẽ, khi các ông đoạt đến chân lý, chẳng hạnh nguyên nương vào phẩm công đức, thì các ông không bao giờ đoạt đến chân lý.
53- Kẻ gút mắc hay nghi chấp cần bậc giải đáp để khỏi nghi chấp thì nó không bao giờ khỏi nghi chấp và gút mắc, mà nói lại càng nghi chấp hơn. Bằng kẻ trí ở nơi gút mắc hay nghi chấp tự nằm nơi gút mắc và nghi chấp để hiểu biết tự phá. Khi đã biết được gút mắc và nghi chấp thì nó không còn gút mắc và nghi chấp.

54- Kẻ ngộc quan niệm sự thường và bất thường, diễn cảnh lớn nhỏ, quan trọng hay không quan trọng. Do ý chí trên nên sự thường trước mắt không chịu thi hành cho tròn bổn phận, để tìm cao siêu ảo vọng, đến lúc sự bất thường đưa đến tối tăm mờ mịt. Do đó mà chịu hứng pháp vô thường. Bậc Trí thường và bất thường không quan hệ, chỉ mục đích tròn duyên, tròn nguyện, nên đứng vào thường chân mà được tự tại vô ngại, thông suốt mười phương.
55- Kẻ vào đường tu mà chẳng chịu tu đó chính là kẻ di đòi nợ. Kẻ vào đường tu mà chẳng chịu tu, mộng tưởng điên đảo, đó chính là kẻ ma dân. Kẻ vào đương tu mà chẳng chịu tu, ganh tỵ đòi hỏi, đó là kẻ chưởng quỷ.
- Kẻ vào đường tu chịu phá chấp, chịu tròn duyên, tròn nguyện, lấy mục đích Chân Thiện Mỹ Hoàn Lai, đó là Bậc xây dựng Chánh Pháp, bậc Hộ Pháp đã nhiều lần gặp Phật, thề nguyên cúng dường Như Lai.
56- Càng Mạt Pháp chừng nào đến tận cùng, đó là Chánh Pháp. Càng si mê chịu tu đến tận cùng, nó sẽ tỉnh.
57- Hỡi cac Chân Phật Tử:
- Các ông hãy nương vào công đức đểthành tựu các Hạnh Nguyện, có Hạnh Nguyện mới có lợi Tự Nguyện, cũng như:
- Có làm mới có lợi, đã không lợi thì đâu có vững bền Chánh Pháp.
58- Các Chân Phật Tử:
- Hiện tại chẳng chịu tu, chịu sữa thì vị lai khó mà tu sữa. Biết hưởng hiện tại thì vị lai được hưởng. Bằng chẳng biết hưởng hiện tại thì vị la không bao giờ được hưởng. Nó chẳng phải tự nhiên hay như nhiên, vì nó có tu thì có chứng, có làm thì có hưởng. Chẳng bao giờ không làm
mà đến, không đi mà đặng.

59- Các pháp động là món ăn của Bồ Tát. Ta thị hiện ra đời hôm nay rất được thích thú, vì Ta có sự làm. Chúng sanh càng mê lầm vọng đảo, nghịch ngợm, Ta càng nhiều công việc, làm càng nhiều.

60- Bậc biết xoá mờ quá khứ để ây đắp hiện tại tu tập, đó chính là Bậc Trí. Kẻ phiền trách nông cạn quá khứ, chỉ mong cầu nơi vị lai, còn hiện tại chưa biết đến là kẻ xuẩn.
61- Các pháp vấp phải có đáng sợ không?
- Phàm Trí sợ mắc miếu, sợ vấp phải nên vấp phải đáng sợ.
- Bậc Đại Trí dùng thù thắng tâm để lướt qua các pháp. Khi vấp phải sợ mà chẳng sợ.
- Bậc Đại giác tỏ thấu nên không vấp, không sợ.
62- Bậc Trí vấp phải các pháp bởi trí chưa thông đạt, còn so tính sự đúng sai, khi vấp phải dù chẳng sợ nhưng bị sợ. Nếu cứ chẳng sợ các pháp, dùng thù thắng tâm mã thế mà không biết rõ thời nói lại thường vấp, thường chẳng sợ, đó chưa phải la bậc trí, mà chính là kẻ xuản vậy.
63- Các ông ngồi trước Ta không bao giờ tu với Ta, các ông chỉ tu với các ông thôi.Nếu các ông tu với Ta, nghe được lời Ta thì các ông tri kiến, tu với Ta thì các ông liền Giải Thoát Môn.
- Cũng như thời quá khứ, Phật thường nói: Ta là người đưa đường chỉ nẻo cho các ông, các ông tự cầm đuốc để mà đi, do đó sự tu hôm nay cũng thế.

TỊNH VƯƠNG NHẤT TÔN

THẾ NÀO LÀ BA ĐIỀU KIỆN GIẢI-QUYẾT ?

THẾ NÀO LÀ BA ĐIỀU KIỆN GIẢI-QUYẾT ?

  • Điều-Kiện thứ nhất: TRÌNH-ĐỘ TRÍ-TUỆ.
  • Điều-Kiện thứ hai: TƯ-THẾ. GIAI-CẤP.
  • Điều-Kiện thứ ba là: HOÀN-CẢNH THUẬN-LỢI.

Hoàn-Cảnh thuận-lợi rất là hiếm, vì sao? Vì nơi Diễn-Cảnh hằng ngày, diễn-cảnh nầy do trong hoàn-cảnh phát-hiện, hay do ngoại-cảnh thâm-nhập mà phát-sanh vì Sắc-Tướng va-chạm bất tương-đồng thường xẩy đến. Khi Nhân-sanh có điều-kiện thứ ba hoàn-cảnh thuận-lợi, lại sanh Trí-Tuệ kém, xác thân lười-trễ, giai-cấp hoài-mong hơn là thực-tế, nên sự Công-Năng yếu khó vượt qua để tỏ rõ sống-chết tử-sanh nguy-hại đến mình làm sao thoát khỏi? Ba điều-kiện trên nó mãi chênh-lệch kéo dài cho đến bá-thiên vạn-kiếp Tử-Sanh, Sanh-Tử không ngừng. Nếu hiện-tại không giải-quyết thời đừng mong-đợi Vị-Lai nó an-bài.

Trên Quả Địa-Cầu có gần đến một phần tư Tín-Chúng về Đạo-Phật, có đến bảy mươi phần trăm bậc Tín-Tâm với Phật-Đạo. Nhưng rất hiếm bậc chu-đáo thâm-nhập Tỏ-Tánh như thế nào, chưa tận-thấu Minh-Tâm suốt-suốt ra sao để giải-quyết con đường sanh-tử, vạn-pháp với Chúng-Sanh, thì làm sao tiến thân rốt-ráo với Ba ĐIỀU-KIỆN đang vấp phải?

Tập CẨM-NANG Giải-Quyết là Tập đã từng qua diễn-khúc đắng-cay, trải qua hàng bao nhiêu thế kỷ truy-tầm thăng-trầm vô-số kể. THỊ-HIỆN. ỨNG-HIỆN chẳng biết bao nhiêu bận. Nay mới mang ra diễn-giải khúc nôi tạo thành CẨM-NANG Cúng-Dường Chư-Phật lưu lại bậc Tín-Tâm, đưa đón Quần-Sinh vào con đường duy-nhất GIẢI-THOÁT-MÔN cứu-thế, Thọ Ký Nhân-Sinh giai-thành Phật-Đạo.

SẮC-TƯỚNG vốn thể Như-Nhiên Giải-Thoát. Vì sao? Vì Sắc-Tướng diễn-xuất từ nơi:  THÀNH-TRỤ cho đến HOẠI-KHÔNG chớ chưa hề có DIỆT, nó rất phù hợp với con đường tu Giải-Thoát. Vì con đường Giải Thoát nương nơi Vạn-Pháp Tỏ-pháp, Pháp HOẠI hết lầm trở thành TỎ-PHÁP chớ chẳng Diệt-Pháp Ngộ-Pháp bao giờ. Nó lại nương nơi Sanh-Tử, giải-quyết Tử-Sanh, HOẠI Tử-Sanh trở thành BẤT-DIỆT, không còn chốn Diệt-Sanh liền thành BẤT-BIẾN, BẤT-BIẾN TRONG SẠCH nào có Ba-Điều vấp-phải?

 

Kỷ-Niệm Ngày ĐẠI-LỄ: 30 tháng 09 ẤT-SỬU

VƯƠNG-TÔN Thọ-Ký.

ẤN-CHỈ VỀ SẮC-TƯỚNG

PHẦN BA.  ẤN-CHỈ VỀ SẮC-TƯỚNG

Phần Sắc-Tướng chung gồm Sơn-Hà Đại-Địa Tam-Thiên Đại-Thiên Thế-Giới, Tam-Thế cùng Tịnh-Độ, Quốc-Độ Chư-Phật, cho đến Tứ-Loài, thảy đều Hiện-Tướng từng lớp Chúng-Sanh, từng hàng Chư-Thiên, Chư-Tiên, chư Bồ-Tát cùng Chư-Phật Thị-Hiện, mỗi mỗi lớp-lớp đầy-đủ trong thế-giới, ngoài các Cảnh-Giới thảy đều thị-hiện như nhau. Chúng-Sanh cùng Chư-Phật, Bồ-Tát với Chư-Thiên Ma-Tằng, Quỷ-Quái, Hải-Tặc Sơn-Lâm cho đến bậc Thiẹn-Căn, Thiện-Chí, Thiện Cảm, Thiện-Nhân đồng hiện Thân-Thể Sắc-Tướng, cốt-cách hình-dạng ấy tiêu-biểu thời Quá-Khứ, nên chi hiện-tại HIỆN.

Do đó nên chi Thế-Giới của con người, đứng trong một nước đều nhìn nhận có từng hàng, từng lớp người, từng giai-cấp cử-chỉ hành-động sai khác nhau khó ăn-ở đồng-đẳng nhau. Bằng hộp-hóa với nhau gọi là Tri-Kỷ. Diễn-Giải như thế để tiêu-biểu trong một nước chung gồm đầy-đủ hạng người quá-khứ đã từng trực-thuộc sinh-sống các Cõi Thượng-Sanh, Hạ-Kiếp nay trở lại Thế-Gian với những điều, một là BỊ-Sanh từ Cõi-Trời hoặc Cõi-Tiên nơi Thượng-Sanh Bị Hạ-Kiếp. Hai là từ Địa-Ngục Ngạ-Quỷ, Súc-Sanh nay ĐẶNG-Sanh về Nhân-Thế. Ba là LAI-sanh con-người sanh lại con-người. Bốn là ĐƯƠNG-Sanh các hàng Bồ-Tát Thị-Hiện cứu-độ chúng-sanh. Sự hỗn-hộp nầy không riêng chi ở Thế-gian các Cõi, các Cảnh-Giới thảy đều hỗn-hộp sanh-sản đầy-đủ từng lớp Hiện-Sanh Hiện-Tướng Bá-Thiên vạn Cõi trong Vũ-Trụ về với một Cõi mà Hiện-Thân.

Bậc tu-hành trên con đường giải-quyết Vạn Pháp với Chúng-sanh, những vị nầy tu hiện-tại, nhiếp-thu quá-khứ, tận-dụng Sắc-Tướng lìa Sắc Tướng nhiếp-thu Giác-Tướng thu-đạt Như-Tướng Tận-Giác, con đường nầy là một pháp-môn: PHẬT-PHÁP BẤT-LY THẾ-GIAN-GIÁC.

Bậc nầy khi đã từng biết sự hiện-thân sắc tướng đầy-đủ hạng người không thiếu-sót vũ-trụ Tam Thiên thăng-trầm lăn-lộn không ngoài lầm-mê sanh-tử, tự-SANH sợ DIỆT, Tự-MÃN sợ KHINH, Tự-TÔN sợ THỊ, Tự-ÁI nên rụt-rè cố-thủ trở thành Bản-Ngã Cá-Nhân, phát-sanh bao nhiêu nghi-ngờ Ganh-Tị, cho nên các Cõi có hình-tướng Sắc-Tướng thảy đều phục-vụ Căn-bản là TỰ-SANH làm con đường  Sướng-Khổ lẽ-sống, sự-sống, cung-cấp Sắc-Tướng trường-tồn, phụng-sự Sắc-Tướng bất-diệt, phải lầm vào THỌ-NGÃ GIẢ-TƯỚNG, Thọ Ngã Giả Tướng là nơi hư-vọng nên khởi-sanh liền-Diệt, Khởi-cấu khởi-tịnh để an-trụ nơi thường-an, bậc tu-hành đang còn Chủng-Tánh, chủng-tánh ấy chưa sạch-sẽ dù cho tưởng bằng Tướng chi không ngoài GIẢ TƯỚNG, giả-tướng nọ nó không ngoài bốn chỗ DỤNG như trên đã nói.

Bậc tu Tự-tánh Tỏ-Tánh thường Quán Sắc-Tướng không nhiễm-Tướng gọi là Phật-Pháp Bất-Ly Thế-gian-Giác. Bậc nầy gần thế-gian Tâm không mắc-miếu, hóa-giải nghi-chấp nên chi nơi cái thấy thường thấy lỗi-lầm nơi thân-tâm mình mà hối-cải.

Lại nữa: Thật tỏ rõ con đường tu-cầu Giải Quyết Tử-Sanh, nhận lấy hiện-tại nhiếp-thu quá-khứ, còn về phần Vị-Lai, kiểm-chứng nơi Công-Đức Công-Năng Bất-Thối, do đó nên chi như-nhiên tỏ rõ thời quá-khứ. Còn hàng Tiên-Thần cùng hàng Nhị-Thừa với Chúng-Sanh-Tánh tu cầu tỏ rõ Quá-Khứ Vị-Lai hơn hiện-tại tỏ-ngộ bản-thân Tâm không nhiễm-trước, của hàng Bồ-Tát, vì sao? Vì hàng Nhị-Thừa  Tiên-Thần chỉ lìa trần cấu mà nhiễm Pháp-Tánh, Tận-Diệt bất-Tịnh lại nhiễm Thanh-Hương, lìa Tối nhiễm Sáng, lìa Thô nhiễm Thanh trở thành không nhiễm, trái lại bị-nhiễm trược.

SẮC-TƯỚNG là một chốn phơi bày Hiện-tướng thời Quá-Khứ nay đã kết-chung hình-thành nên ứng-hiện đủ màu-sắc, từ Tướng-Hình Cử-Chỉ đến Hành-Động thanh-thô giữa Nhân-Loài, mặt ngoài nhìn thấy nó bất-đồng, nhưng bậc Giác-Tướng thấy nó rất đồng theo Tánh-Trí Bình-Đẳng của nó hiện-ứng-thân nơi nó, hoàn-cảnh hiện-hữu của nó, trở thành rất nhiều Thế-Đứng trong xã-hội hiện-đại nầy.

Khi bậc tu-cầu lấy Hiện-Giác, phải hiện từ nơi Thế-Gian đến Xuất Thế-Gian đầy-đủ Vũ-Trụ tỏ-rõ Nhân-Loài nó như thế nầy, nó phải hưởng như thế ấy. Nó như thế nọ nó phải chịu như thế kia. Nó như thế khác, nó phải đi theo thế khác mà lãnh lấy trách-nhiệm sướng-khổ, do tại nơi nó mà ra, chớ chẳng ai làm cho nó phải như thế. Thế-Đứng nơi Sắc-Tướng phải tận-tận. Thị-Hiện Viên-Dung suốt-suốt đó là Giải-Thoát, chớ không chi Giải-Thoát.

SẮC-TƯỚNG Thân-Hình, không bao giờ thay-đổi mà nó vẫn đổi thay, gọi nó không khác mà khác. Hoàn-cảnh khẳng-định không bao giờ thoát nổi. Nhưng nó lại vẫn thoát-sinh đến mức rất an-bài.

Bậc không khác mà khác. Hoàn-cảnh không thoát nổi mà thoát rất an-bài. Những bậc nầy có Căn Bản tự-lượng lấy mình, tự-chính bản-thân phải bổ-sung những điều thiếu-khuyết, bằng dư-dả phải giảm đi. Tự-trọng mình, tự-tôn không khinh-rẽ kẻ khác, đây là một cơ-bản tiến-thân Sắc-Tướng đáng kể.

Những bậc không khác mà khác. Không thoát mà thoát nó vấp phải ba điều-kiện nầy phải trải qua hàng bao nhiêu Công-Năng Công-Đức mới vượt khỏi, bằng vô-tư không khai-triển khó thành-đạt được mục-tiêu trên để đi trên con đường giải-quyết Sanh-Tử.

THẾ NÀO LÀ PHÁP-GIỚI? THẾ NÀO DIỄN-CẢNH?

THẾ NÀO LÀ PHÁP-GIỚI? THẾ NÀO DIỄN-CẢNH?

Pháp-Giới nó trực-thuộc Cố-định nền-nếp sống lẽ sống đang sinh-sống của mỗi chúng-sanh, không ngoài Thiên-Sống, Nhân-Sống, A-Tu-La Sống, Ngạ-Quỷ, Súc-Sanh cùng Địa-Ngục đang sống hiện-tại Thế-Gian, chia ra rành-mạch củng-cố mà sống gọi HOÀN-CẢNH hay Số kiếp con người.

DIỄN-CẢNH, diễn-cảnh do nơi khởi-sanh trong từng thứ-lớp trình-độ giai-cấp chúng-sanh mà ra, mỗi một chúng-sanh thảy đều Bình-Đẳng Tánh-Trí, mỗi-mỗi đều mang lấy Lý-Trí giai-cấp trình-độ mình, cuộc sống nó không ngoài CẢNH SANH-TÌNH, bậc khác hơn lấy TÌNH mà Sanh Cảnh, chính là Bậc Đạo-Đức, được gọi là Quân-Tử.

Từ Nhân-Sinh hay Tứ-Loài trong Vũ-Trụ Tam Thiên đều hấp-thụ SẮC-PHÁP, nếu chẳng có Sắc-Pháp thời chúng-sanh không phát-sanh Trí-Tuệ hiểu-biết đặng, cuộc diễn-tiến đảo-điên, Cảnh sanh Tình kết-nạp, nên chi mới có Kiến-dục Ái-dục, được gọi là NGŨ-DỤC Tham-lam, diễn-cảnh thăng-trầm xuống lên không dứt, nó in tuồng Pháp-Giới, chính nó cũng là Pháp-Giới Khởi-Sanh, Khởi-Diệt Cấu-Tịnh tạo thành vòng-đai Luân-Hồi Sanh-Tử.

Hàng Bồ-Tát thật tỏ rõ. Từ nơi Tánh-Trí suy-nghĩ nơi chủng-tánh, do nơi Tư-Tưởng phát-huy Hồi-Tưởng, Tư-Tưởng làm Chủ-Động của suy-tưởng (suy nghĩ), trưởng-thành  Quán-Tưởng đến Định-Tưởng, mới phát-hiện  hành-động cho nên mới gọi là Tư-Tưởng làm MẸ-ĐẺ Hành-Động. Hành-Động này nó trực-thuộc trình-độ giai-cấp của mỗi chúng-sanh có mỗi hành-động. Chủ-đích nơi nó xuất-phát Tánh-Tình cũng là Tánh-Trí Hành-Động, không ngoài đồng-hộp-hóa giữa chúng-sanh với nhau, hay Bất-Hợp-Hóa mà có Diễn-Cảnh Thuận-Nghịch là hai con đường  chúng-sanh phải chịu lấy.

Bồ-Tát thật rõ, còn rõ hơn thế nữa nên CHỨNG-TRI Vô-Sanh. Thân-Khẩu-Ý liền-lạc không sai-lệch, nhờ như thế mới có uy-nghi, uy-thế của Bồ-Tát.  Bồ-Tát liền Tuyên-Thuyết: NHẤT-NGÔN TRI-KIẾN-PHẬT làm cho tất-cả nương nơi Bồ-Tát, đó chính là con đường  Bồ-Tát độ Chúng-Sanh.

Khi Bồ-Tát viên-dung nương nhờ nơi tu-trì Chủ-quán, Bồ-Tát thường Quán-Thế, pháp-môn Quán-Thế của Quan-Thế-Âm Như-Lai-Phật là con đường  tự-tại của Bồ-Tát, con đường  nầy nhiếp-thâu đầy-đủ Tịnh Bất-Tịnh thảy đều Hiện-Thân cứu-độ. Bồ-Tát thường đứng trong Diễn-Cảnh Bối-cảnh của chúng-sanh mà cứu-độ, do đó nên chi Bồ-Tát mới viên-dung Nghe-Thấy-Biết tận-tận, được gọi là: HIỆN-NHẤT-THIẾT SẮC-THÂN-TAM-MUỘI.

Hiện-Nhất-Thiết Sắc-Thân Bồ-Tát đã từng lìa Ngã cùng Ngã-Sở không còn Tự-Mãn, Tự-Ý, Tự-Lợi, Bồ-Tát Quân-Minh Tha-Lợi, do đó nên chi tỏ rõ THỰC-TƯỚNG VÔ-TƯỚNG Tam-Muội Pháp-Môn làm Chủ Trì Thực-Vô, Vô-Thực, Chứng-Tri Bát-Nhã, gọi là Bồ-Tát Ma-Ha-Tát. Bồ-Tát Ma-Ha-Tát không còn tập-khởi, tập-nhiễm trần-lao, vì đã trải qua Chủng-Tánh Chúng-Sanh-Tánh cùng Bồ-Tát-Tánh, Thực-chứng.

Hàng Ma-Ha-Tát đã thấu-đạt Pháp-Tánh là chỗ Dụng thứ ba, cũng là một yếu-tố đáng kể nhất, trên con đường Vạn-Pháp với Chúng-Sanh, chúng-sanh lầm-lạc sa vào các Cõi cùng các Cảnh-Giới Tam Thiên Đại-Thiên Thế-Giới cho đến Tam-Thế-Phật phải Thị-Hiện Cứu-Độ nơi mù-quán của chúng-sanh. Kim-Cang-Kinh đã nói:

NHẤT-THIẾT HỮU-VI PHÁP.

NHƯ MỘNG HUYỂN BÀO ẢNH.

NHƯ LỘ DIỆT NHƯ ĐIỂN.

ƯNG-TẮC THỊ NHƯ QUÁN.

Pháp-Tánh kia nguyên-thể vốn Vạn-Pháp, Như-Nhiên Bất-Biến, do nơi Chúng-Sanh lầm-lạc Thọ-Chủng, trở thành Bị-Biến Diệt-Sanh, thêm vào đó phát-sanh hư-vọng đảo-điên, Vạn-Pháp kia tùng theo hư-vọng đảo-điên mà ứng-hiện, thành thử gọi là PHÁP TÁNH VIÊN-DUNG BÌNH-ĐẲNG, có nghĩa tất-cả Chúng-Sanh. Nó nghĩ như thế nào thảy đều ra như thế ấy, đứng trước khía-cạnh bá-thiên Vạn Lý đến Vạn TRÍ thảy đều có cái Chân-Lý PHẢI nơi nó, cho đến nổi TÁNH nào, CHẤT nào, PHẨM-LƯỢNG nào vẫn đều Chánh-Báo Thọ-Báo không sai với nó, tựa như Bóng với hình, làm cho tất cả chúng-sanh khó thoát khỏi Tử-Sanh cùng Sanh-Tử trong khi đã từng sạch-nghiệp, sạch-Lý vẫn còn Tử-Sanh Sanh-Tử, dù cho bậc bâc tu-hành không chấp-nhận Pháp-Tánh vạn-pháp trao trả hư-không vô-tận, vẫn bị nơi KHÔNG của Pháp-Tánh điều-động thì sao?

Bậc Ma-Ha-Tát nhìn-nhận, trước kia Chúng-Sanh Trí-Tuệ thuộc về Viên-Dung Như-Lai Trí. Như-Lai thời không thể chỉ, còn viên-dung Như-Lai làm như thế nào để biện-minh. Nhưng Tập: CẨM-NANG nầy cốt lưu cho tất cả các bậc tu-hành dễ nhận-chân thực-hiện vào con đường  giải-quyết Tử-Sanh thành thử phải diễn-giải trên.

Trí Như-Lai Viên-Dung chung khắp. Khi Chúng Sanh Thọ-Chủng Tánh Chúng-Sanh, thì Trí kia vương vào TẠNG-THỨC, nhưng tất cả thuộc về Hạt-Giống Như Lai nên Trí-Hóa phải tùy-thuộc nơi Như-Lai-Tạng. Như-Lai-Tạng trực-thuộc về mỗi Tạng-Thức củng-cố nhận lấy Tạng mình làm bảo-trì Lý-Trí, Như-Lai Tạng với Pháp-Tánh lại đồng-thể như nhau, do đó từ nơi Phải-Trái Tốt-xấu Hư-Nên tất cả Ngôn-Từ, Ngôn-Thuyết thảy đều chung qui NHƯ-VẬY.

Tạng-Thức mỗi mỗi chúng-sanh đồng Nghe-THẤY-BIẾT, nhưng bất-đồng do nơi Chủng-Tánh khác nhau. Phần Pháp-Tánh do chúng-sanh lầm-lạc Tạng-Thức mộng-tưởng mới hình-thành, do mong-muốn mà ứng hiện, tùy-tùy từng lớp ứng-hiện không thiếu sót, cho đến nổi những bậc giải-Lý tầm-Chơn vẫn là Chân Lý Pháp-Tánh ứng-hiện, lầm-lẫn thụ-chấp kiến-tạo an-trụ lầm nơi sở-chứng của mình, nào ngờ vấp phải mù-quán, cho nên không thể công-dụng Văn-tự minh-thuyết hoặc Thuyết-minh để phơi-bày cho tường-tận, nơi chốn diễn-biến của Pháp-tánh, duy-nhất các bậc tu-hành vừa hiểu-biết vừa, THỰC-HIỆN mới THÂM-NHẬP, mới VIÊN-DUNG nơi TỎ-TÁNH mà thôi.

Khi tỏ rõ, tận-thấu Pháp-Tánh mới được gọi là MINH-TÂM, lúc thu-nhiếp Pháp-Giới tường-tận hàng hàng lớp-lớp mỗi khẽ-động giao-tế, từ tư-tưởng đến Hành-Động Cớ và Sự, nhiễm như thế nào phát-sanh Lục Căn, Lục-Trần, Thân cùng Tâm phương-diện nào, gọi là CHỦNG, phương-thức nào cho là Nghiệp. Sự-Lý đọng-vọng, Bậc nào dùng Sự làm Phật-Sự, kẻ nào dùng LÝ tu-hành, Tánh cùng Tướng kết-nạp hình-thành như thế nào thảy đều tận-tận không hề thiếu-sót, đó mới gọi là MINH-TÂM KIẾN-TÁNH, ngoài ra chớ nên dùng Có Sắc-Pháp hay Sắc-Tướng cầu báo. Lại chớ nhận Không, dụng Trí nơi an-trụ-xứ, hai điểm này bậc tu chưa Thông-Đạt, Tận-Thành, hãy còn nghi vẫn phải thực-hiện đến lúc giải-quyết đặng chúng-sanh cùng Vạn-Pháp, rất tường sai, Ly tận đoạt Chơn. Vì sao?  - Vì TẬN-TÁNH tỏ-chơn đường đi lối về SANH-TỬ. MINH-TÂM Trực-Ngộ PHÁP-TÁNH diễn-hành, Thọ-Chủng TÂM-THỨC trực-thuộc NHƯ-LAI-TẠNG điều-động.

Bồ-Tát Ma-Ha-Tát. Trước tiên phải là bậc tu-đạt Bát-Nhã-Trí, khi Bát-Nhã-Trí viên-thông ra vào Viên-Giác mới Chứng-Tri Ma-Ha-Tát. Bậc tu cầu phải đi vào con-đường Tứ-Nhiếp-Pháp cùng Lục-Ba-La Mật-Đa. Ba-La-Mật-Đa thành-tựu Bát-Nhã-Trí, đoạn trên đã nói: Chớ nên dùng KHÔNG lìa Trí mà an-trụ xứ rất tai-hại đường tu, sai với Tinh-Thần Giải-Thoát.

Ma-Ha-Tát đã giải-quyết Ba chỗ DỤNG. Chủng Tánh Chúng-Sanh-Tánh và Bồ-Tát Tánh, tu-đạt đến Tận Tận Vô-Minh, Vô-Minh liền Tận, chưa bao giờ hàng Bồ-Tát tận-diệt Vô-Minh, thành thử trơn liền, không còn PHẬT-CHỦNG là Phật-Tánh nữa. Bồ-Tát Thành-Phật độ-sanh, trải qua xây-dựng Quốc-Độ SẮC-TƯỚNG Bất-Biến Thường-An Bất-Diệt vậy.

Hàng Ma-Ha-Tát rất thâm-nhập Lý-Chí của các lời Phật-Ngôn chỉ-giáo hướng-dẫn chúng-sanh trên con đường Giải-Thoát. Chư-Phật dặn-dò tất cả các bậc tu-hành chớ nên Chấp-Trụ, lìa hẳn Lý-Sự đảo-điên mộng-tưởng, phải tu-cầu lãnh lấy sự tu cầu bằng Pháp Vô-Lậu, sẽ kết-quả Vô-Biên-Xứ, Vô-Định-Xứ, tỏ Vô-Tận-Xứ rốt-ráo giải-thoát Niết-Bàn hai cánh cửa Niết-Bàn mà Chánh-Giác cho nên Phật nói: KHÔNG ĐẮC mà ĐẮC. KHÔNG-CHỨNG mà CHỨNG. KHÔNG-ĐẾN mà ĐẾN. KHÔNG Công-Đức mới gọi là CÔNG-ĐỨC. KHÔNG-THÂN mới là THÂN. Những Ấn-Chỉ Phật-Tôn nầy, chỉ có hàng Ma-Ha-Tát đã từng thấu, vì sao? Vì Hiện-diện chúng-sanh đang còn Bốn Chỗ DỤNG, đang trực-thuộc vạn-pháp tử-sanh chưa giải-quyết sanh-tử, trong lúc đảo-điên hoài-vọng năng-chấp bị-trụ lầm-lẫn Sở-Đắc Chứng-Tri, thảy đều mơ-màng nơi diễn-ảnh, mộng-tưởng Niết-Bàn hai cửa HỮU-VÔ, làm thế nào Chánh-Giác? Đây là những điều các hàng Ma-Ha-Tát trải qua thâm-nhập, nên chi hàng Đại-Bồ-Tát NGHE-THẤY viên-dung, tỏ rõ tận-tận vô-biên-xứ, chưa hề có chỗ nghi nào cả. Có một thời VÔ-THƯỢNG-TÔN Ấn-Chỉ, cốt cho tất cả các hàng Tín-Tâm tu-tập hãy nương theo đó mà nhận-chân Pháp-Tánh, tư-tưởng hình-thành Ngài nói:

THÂN thời đầy-đủ vẹn-toàn.

Phần Tâm-Trí-Óc, của Tiên-Thánh-Thần.

GIÁC-Hoàn chính thật là THÂN.

Tại sao, ngơ-ngẩn phân-vân nỗi gì?

Tìm đâu, nhìn thẳng bài Thi.

Lời TA đã nói những gì PHẬT-TÔN.

 Trải qua hàng bao nhiêu năm, hiếm bậc tu-hành hiểu đặng. Vì sao? Vì lời Ấn-Chỉ vẹn-toàn, tất cả các hàng tu chưa đến nơi Giác-Tướng, đang còn vướng vào BỐN CHỖ-DỤNG quay-quần, từ Chủng Tánh đến Pháp-Tánh là nơi Tiên-Thánh-Thần sở-chấp an-trụ, bậc tu đa phần chỉ đang tu để tỏ đường tu, thành thử chẳng nhận chân giá-trị Ấn-quyết. Khi Chúng-Sanh đang ở nơi chốn thấy, chưa bao giờ thấy đặng. Lúc chúng-sanh vượt tầm chốn Thấy mới Thấy đặng mà thôi, gọi là: Ở nơi Nghiệp chưa thấy đặng Nghiệp, thoát khỏi Nghiệp mới thấy Nghiệp. Hàng Chủng-Tánh Bồ-Tát đang nhiếp-thâu vạn-pháp, chưa tường-tận vạn-pháp, đến khi bước sang Ma-Ha-Tát mới tỏ rõ vạn-pháp là CÁI GÌ?

TU NHƯ THẾ NÀO SẠCH-SẼ BỐN CHỖ DỤNG?

TU NHƯ THẾ NÀO SẠCH-SẼ BỐN CHỖ DỤNG?

Một là: Nương nơi vạn-pháp Tỏ-pháp mới Sạch-sẽ Thể-Tánh, bằng củng-cố, đứng yên, hư-vọng mong cầu đến vẫn chưa đến, gọi là: Sanh-Diệt, thường-sanh hay bị-diệt vẫn chưa sạch-sẽ Thể-Tánh Vạn-Pháp.

Hai là: CHỦNG-Tánh, Kể từ hàng Chủng Tánh Chúng-Sanh đến Chủng-Tánh Bồ-Tát qua hai tầm-số khác biệt nhau giữa PHÀM và THÁNH, con người với bậc Quân-Tử cùng kẻ Tiểu-Nhân.

Chúng-Sanh Chủng-Tánh. Bủn-Xẻn, Thù-Hận Ương-Hèn, Ganh-Tị, vặc-mắc, lười-trễ, Tự-Ái, Tự-Mãn, Tự-Tôn, Tự-Sanh, Tự-Ý, Tự-Lợi, cuộc sống chết không ngoài CÁI-ĂN, Cái Mặc. Những điểm trên khi va-chạm nhau; Bủn-Xẻn trở thành so tính hơn-thua. Được mừng Mất phiền gây thành Thù-Hận Oán-Cừu, Ương Hèn chưa bao giờ vương mình, khi có kẻ vươn mình sanh ra ganh-tị, tranh-giành, tranh-giành từ lời nói đến sự-việc là phát-sanh vặc-mắc, gặp sự-việc va-chạm cá-nhân bộc lộ Tự-Ái, ưa-thích cầu danh thường Tự-Tôn mình là Đạo-Đức, tự-tôn là bậc Quân-Tử, tự-sanh ghét kẻ Tiểu-Nhân chính mình tự mang Nghiệp Tự-Mãn, nơi Tự-Mãn thành-thử có riêng-tư trở thành nơi Tự-Ý đồng Tự-Lợi.

Bậc tu-hành cần nhất hóa-giải Chủng-Tánh Chúng-Sanh-Tánh, Chủng-Tánh Chúng-Sanh-Tánh là nguồn-gốc lầm-mê, chủng-tánh Chúng-Sanh-Tánh là sợi giây ràng buộc các bậc tu-hành, dù tu cho đến mức nào, nó chưa sạch-sẽ vẫn còn nằm nơi chúng-sanh Thành-Phật, Phật với Pháp-Giới chúng-sanh mà thôi. Mỗi một khi Chủng-Tánh chưa sạch phát-sanh ganh-tị, tự-ái tự-mãn cho nó là Nghiệp chẳng phải là Nghiệp, bởi tại chưa sạch-sẽ chúng-sanh trở thành ganh-tị, tự-ái, tự-mãn mà thôi. Lúc sạch-sẽ trơn-liền, không bao giờ có những đố-tật như trên đã nói. Phật-Đạo Công-Dụng phương-thức cho chúng-sanh giải nghiệp gọi là nghiệp-chướng, Nghiệp-Thức, Nghiệp-Lậu cùng Kiết-Sử, cho đến Nghiệp-căn, Nghiệp Trần cũng không ngoài giải sạch-sẽ Chủng-Tánh chúng-sanh-tánh là một yếu-tố cần nhất vậy.

Đến thời Chúng-Sanh bước qua Chủng-Tánh Bồ-Tát Tánh nó không thể nào căn-cứ được. Vì sao? - Vì đương khi Thọ-Nghiệp, chủng nghiệp chủng-tánh nơi Chúng-Sanh-Tánh tiêu-giải nhiều ít mà phát-nguyện bước qua, thành thử có năng khiếu Thọ-Lãnh Bảo-pháp, hiểu-biết trọng-yếu mà phát-tâm-nguyện. Do cớ-sự trên nên chi Phật nói: Nơi Mê, chốn-Ngộ nó không có Hạng-Lượng, Mê làm Chúng-Sanh, Giác-Ngộ thành Phật. Lý-Sự thành Phật thì rất dễ, mà giải-quyết Sanh-Tử thực-hiện Chánh-Giác khó-khăn vô-cùng, vì sao?  - Vì phải Tu mới Chứng, khi Chứng xong gọi là Không Chứng cũng Không Tu.

Hàng Bồ-Tát chẳng còn Tánh Tự-Mãn, Tự-Ái, Tự-Tôn, Tự-Ý, Tự-Lợi cùng Tự-Sanh. Vì sao?  - Vì Tự-Mãn, tự-ái, tự-tôn, tự-ý đều là Pháp Hư-Vọng, nó thường sanh hay diệt, thường cấu hay tịnh, chưa hẳn thuộc về Thể-Tánh Chơn-Như của Vạn-Pháp. Lại nữa: Tự-Mãn, Tự-Ái, Tự-Tôn đến Tự-Ý liền Tự-Sanh Tăng-Thượng sai lạc với con đường Giải-Thoát. Bồ-Tát thật tỏ rõ những Tánh kia còn dung-túng, còn tập-nhiễm, còn cô-đọng gìn-giữ nó, dù cho thuyết-pháp thuyết-minh lời-lẽ in tuồng như Phật chăng vẫn là lời Ma-Thuyết..

Hàng Bồ-Tát khai-trừ Chủng-Tánh Bủn-Xẻn Thù-Hận ganh-tị và vặc-mắc, những Tánh nầy không bao giờ trưởng-thành Phật-Đạo. Vì sao?  - Vì Bủn-Xẻn sanh nở thù-hận Ương-Hèn là nơi chốn trú-ẩn của chủng-tánh chúng-sanh an-dưỡng nơi Ngạ-Quỷ, Súc-Sanh cùng Địa-Ngục. Lại nữa, chủng-tánh Bồ-Tát chủ-yếu nhiếp-thu Pháp-Giới cốt tường-tận. Từ Chủng Tánh Chúng-Sanh-Tánh của mỗi nơi, mỗi chỗ Thọ-Nghiệp tất cả Vũ-Trụ Tam-Thiên có hằng-hà sa-số khởi-sanh, từ nơi sanh ấy Thọ-Chủng phát-hiện  Cảnh Giới các Cõi, gọi là Thượng-Sanh Hạ-Kiếp không ngừng. Bồ-Tát kiểm-chứng nơi Thâm-Tâm nơi ngưỡng-vọng, bồ-tát mới hay kẻ LƯỜI-TRỄ là kẻ vặc-mắc đứng thứ nhất, vặc-mắc lười-trễ mới phát-sanh nghi-ngờ, nghi-ngờ tự-sanh ra muôn nghìn Pháp-Giới, vô-tận Pháp-Giới là một nơi sanh-diệt không ngừng, do đó nên chi Hàng Bồ-Tát, phát-nguyện Tinh-Tấn, phát-nguyện Đại-Nguyện BI-CHÍ-DŨNG lướt qua từng Pháp-Giới hóa-giải nghi-chấp. Bồ-Tát thật tỏ rõ nơi nghi chấp nầy, chưa hóa-giải Chủng-Tánh Chúng-Sanh- Tánh còn cặn-bã nào mang lấy nghiệp-quả của chủng-tánh ấy. Cũng như Chén Ngọc-Bích không bao giờ chứa-đựng món ăn nhơ-nhớp, hàng Bồ-Tát nhiếp-thu suốt-thông vạn nẽo, lại còn phải phẩm-chất hôi-tanh, do cớ-sự trên nên chi Bồ-Tát hóa-giải gạn trừ sạch-sẽ Chủng-Tánh Chúng-Sanh, thật-thụ vào hàng Bất-Thối Bồ-Tát mà Tu-Đạt.

Bồ-Tát nhìn-nhận tại sao các hàng tu chưa đến, chưa có một Lý-Sự chứng-minh, phải đi vòng với Chúng-Sanh-Tánh mà Thọ-Nghiệp? Do nơi chưa sạch-sẽ, nên Lý-Sự bất tương-song, chỉ tu nơi ngưỡng-vọng mong đến mà chẳng đến. Còn hàng Bồ-Tát không tu cầu đến mà đến, vì bồ-tát, tu sửa tận gốc nên tất cả vạn-pháp hồi Tôn không còn mới sạch-sẽ.

Bồ-Tát biết rõ căn-nguyên của chúng-sanh Chủng-Tánh vướng phải lỗi-lầm mà thọ-nghiệp mang pháp-giới Thụ-sanh, còn cuộc sống hằng ngày do DIỄN-CẢNH Bối-cảnh, Nghịch-cảnh, mãi lăn-lóc nơi diễn-cảnh bối-cảnh, chưa bao giờ đặng an-nhàn như Bồ-Tát.

THẾ NÀO LÀ BỐN CHỖ DỤNG ?

THẾ NÀO LÀ BỐN CHỖ DỤNG ?

Một là: THỂ-TÁNH vạn-pháp Diệt xong mới Sanh. Hai là: Khi Chúng-Sanh Thọ-Chủng, chúng sanh Thọ-Nghiệp thì Thể-Tánh thuộc về Chúng-Sanh gọi là CHỦNG-TÁNH. Nơi Chủng-Tánh nầy gồm có Chủng-Tánh Bồ-Tát cùng Chủng-Tánh Chúng-Sanh-Tánh.

Chẳng khác nào Vị Trưởng-Giả giàu-có Tài-Sản to lớn, vật-dụng đầy-đủ không thiếu-sót. Trưởng-Giả mang ra chia cho các con. Mỗi đứa con một món, không còn nguyên-vẹn, không còn là Tài-Sản. Thể-Tánh và Chủng-Tánh cũng như thế, do đó nên chi, mỗi-mỗi chúng-sanh mang lấy mỗi CHỦNG-TÁNH. Chúng-Sanh Tánh thành thử TÁNH và TRÍ của mỗi chúng-sanh đồng-đẳng gọi là BÌNH-ĐẲNG TÁNH-TRÍ của mỗi con người chia ra Lý cùng Trí chung gồm bao nhiêu chúng-sanh có bao nhiêu Lý-Trí.  Lý-Trí nầy thường xẩy ra chuyện đồng và bất-đồng trong hàng Chúng-Sanh-Giới, do đó nên chi có NGHIỆP, nặng nhẹ trở thành Chánh-Báo và Thọ-Báo Sanh-Tử Luân-Hồi.

Ba là: PHÁP-TÁNH, Pháp-Tánh trực-thuộc về mỗi mỗi Chủng-Tánh ưa-chuộng mà đài-thọ Cảnh-Giới, đài-thọ tùy theo Sở-Nguyện cung-cấp như-ý-nguyện. Chung gồm tất cả Tam-Thiên Đại-Thiên Thế-Giới, cho đến Ngạ-Quỷ, Súc-Sanh cùng Địa-Ngục Tứ-Loài thảy đều tùy-thuận biến-hiện, không ngoài cơ-cấu khởi-sanh, bị-diệt thảy đều là động-cơ Pháp-Tánh.

Bốn là: Thể-Tánh Vạn-Pháp bị phân-đối chia-phân do CHỦNG-TÁNH, Chủng-Tánh củng-cố trưởng thành Pháp-Tánh, Pháp-Tánh điều-động diễn-biến không ngừng bao che PHẬT TÁNH, lầm-mê chúng-sanh chưa chu-đáo tận-tường nó là: VÔ-MINH gây nên con đường Sanh-Tử. Bốn chỗ dụng diễn-hành mãi cho đến Hàng Bồ-Tát nhiếp-thâu vạn-pháp, nhiếp-thâu Lục-Đạo, Tự-Tánh Tỏ-Tánh vẫn chưa đủ chu-đáo phải trải qua hàng Đại Bồ-Tát Ma-Ha-Tát, những bậc Đại Bồ-Tát tu Ma-Ha-Bát-Nhã, Ba-La-Mật-Đa sạch-sẽ, chu-đáo không còn chỗ dụng nào, thảy-thảy tận-thấu liền-lạc mới không còn Tập-Khí  Sanh-Tử.

THỌ GIỚI ĐẠO TRÀNG

Con đường Tu-Phật đã có một GIỚI nơi Đạo Tràng hãy THỌ-GIỚI ĐẠO-TRÀNG, TRÌ-GIỚI theo TÔN-CHỈ có một tinh-thần quyết-định gọi là ĐỊNH. Khi GIỚI đồng với ĐỊNH xong liền lãnh-hội Bảo-Pháp gọi là TUỆ. Lúc đã có sẵn TRÍ-TUỆ phải thực-hiện BA-LA-MẬT-ĐA về với CHÂN-TÔN TRỰC-GIÁC.

Cao-quí thay lời Vàng chăm-chỉ cứu-chữa các con bệnh mê-lầm thật chu-đáo tỉ-mỉ thay! mấy ai đã tỏ rõ thâm-tình của Chí-Tôn Vô-Thượng? Từ-Ngôn-Từ Ấn-Quyết các Chư-Tăng lãnh-hội tu-hành, ban-bố GIỚI-ĐỊNH-TUỆ cũng-cố nghiêm-túc quá đà, nên chi GIỚI-ĐỊNH-TUỆ kia trở thành vô-ích lầm-mê. Giới gìn-giữ giới. Định Tọa-Thiền xuất-định hay ổn-định hoặc Cố-Định, tùy theo Chư-Tăng chỉ-đạo liền phát-sanh Trí-Tuệ. Làm như thế, giải như thế tất cả thảy đều có mỗi một định-hướng Tận-Diệt-Nghiệp, tận-diệt hiểm sâu độc-ác, xa-lìa nghịch-pháp, huân-tập thiện-chân, dùng Tịnh-Diệt tu-cầu Đại-Thanh-Tịnh sa vào Tiên-Đạo, trái với Thể-Tánh Vạn-Pháp, nên chi khác xa với con đường giải-quyết Vạn-Pháp với Chúng-Sanh, bao giờ tu-đạt đến Chánh-giác?

Các bậc tu-hành, lầm đường lạc lối thành-thử tu hàng vạn-triệu kiếp chưa hình-thành, chưa đoạt đến hoàn-lai Chân-Thiện-Mỹ. Vì sao?  - Vì tu chỉ biết mình tu nhận lãnh chốn tu-hành củng-cố theo khẳng-định, làm thế nào Trí-Tuệ thoát-sanh truy-tầm duyên-căn tận gốc để mà Tri-Kiến Giải-Thoát Môn?

Dù cho hàng Xuất-Gia hay Tại-Gia cũng đều là Giới Xuất-Gia cùng Giới Tại-Gia, mỗi GIỚI đều giữ trọn. Bằng làm con-người phải giữ trọn tiếp-đãi hoặc đối xử với con-người cho trọn. Nếu là con-người tự mang lấy Man Tâm Dã-Thú thì thử hỏi có phải con-người chăng?

Tinh-Thần nơi Đạo-Phật cũng như thế. Khi Bậc Xuất-Gia nên chủ-quán Thế-gian Giả cốt Xuất-Ly Thế-gian, lìa hẳn Cấu-Tịnh Dị-Biệt giữa Giới Xuất-Gia cùng Tu Tại-Gia, khỏi bị vướng vào sanh Tâm phân Dị-Biệt. Còn Bậc Tại-Gia phải nâng cao tinh-thần hướng-thượng, nhìn tất cả lý-sự khổ-đau của quần-chúng, mới sanh-tâm Đại-Nguyện lướt qua từng bối cảnh mà tu-hành. Đây chính là một bước đầu con-đường  Tri-Kiến. Vì sao? - Vì Xuất-Gia là Pháp-Môn VÔ-VI Xuất-Thế, Công-Đức không màng, Công-Phu chẳng bỏ, Lợi-Ích không cầu, Danh-Nghĩa chẳng Tham, đó mới thật Xuất-Gia Tri-Kiến Giải-Thoát. Còn bậc Tại-Gia, gần Phàm-Phu không làm mất hướng-thượng nơi Thánh-Ý.

Bậc tu-hành rất cần hiểu sâu thâm-nhập, mới rõ thấu Thể-Tánh Vạn-Pháp để mà tu. Bậc chưa bao giờ hiểu thấu thể-tánh vạn pháp, cuộc di-chuyển vạn-pháp, linh-động nơi vạn-pháp, thời dù cho tu bá-thiên vạn-kiếp chưa bao giờ giải-quyết đặng Tử-Sanh, vẫn trong vòng tập-khí  Sanh-Tử mà Sanh-Tử trôi giạt Luân-Hồi. Đây là một mục-đề căn-bản, vạch lối để các bậc tu hành tìm chân tu trên con-đường Giải-Thoát. Khó-khăn thay! Con-đường  Tu-Phật, bậc tu-hành dù cho viễn-đạt đến đâu chăng, còn Tập-Khí  vẫn còn Sanh-Tử, còn trong vòng Phật Pháp, Pháp-Phật vẫn còn Tử-Sanh. Dù bậc Đắc-Đạo Tri-Đạo khéo Thuyết-Đạo đều là bậc tỏ rõ đường đi lối về Đạo-Phật, làm sao thoát ly Đạo-Phật mà Giải-Thoát. Dù Phật đã dạy: Đạo-Tràng cứu-cánh Giải-Thoát chăng, chưa giải-quyết Sanh-Tử vẫn chưa giải-thoát khỏi Tử-Sanh.

Đương thời Quá-Khứ. Có một Vị Đại-Sư Chỉ-Đạo, một hôm có Vị Trưởng-Giả đến thưa hỏi: “Bạch Đại-Sư, Tri-Kiến Giải-Thoát. Còn Sanh-Tử hay chăng?”. Đại-Sư đáp: “Tri-Kiến Giải-Thoát không còn Sanh-Tử”. Thế mà Đại-Sư vẫn đi trong Sanh-Tử, hiện thân kẻ đưa đò, cốt tìm cho đặng Vị Minh-Sư thưa hỏi, mãi đến 18 kiếp mới gặp Minh-Sư. Vị Đại-Sư thưa hỏi như trên, Minh-Sư đáp: “Còn Tập-Khí  chưa viên-đạt, con đường  Sanh-Tử vẫn Tử-Sanh.” Đại-Sư mừng-rỡ bái-tạ mới nhập Bát-Đại Niết-Bàn. So những điểm trên đủ tỏ-rõ, con đường Sanh-Tử là một con đường  ấn-quyết Sanh-Tử, con đường quan-trọng nhất cho bậc tu cầu Chánh-Giác hoàn-toàn Giải-Thoát, không còn tập-khí  Sanh-Tử là như thế.

Con-đường nầy các Bậc, các Chư-Tổ đã từng qua giải-quyết Sanh-Tử, gọi là MINH-TÂM KIẾN-TÁNH. Bậc tu trước tiên phải Minh-Tâm tận soi Kiến-Tánh. Tánh nó có bốn chỗ DỤNG khác nhau, bốn chỗ dụng nầy phải tận-thấu mới thoát-sanh, thoát-diệt, tường-tận chu-đáo mà giải-thoát.

THẾ NÀO THỂ TÁNH VẠN PHÁP ?

Con đường Tu-Phật là con đường  duy nhất, bậc Tín-Tâm thiết-tha cầu Đạo để giải-quyết sanh-tử. Bằng các bậc tu-hành dù cho thiết-tha thành-thật đến đâu chăng, chưa chủ-yếu giải-quyết, vẫn chưa Giải-Thoát.

Đường tu các mối tu phải hiểu thấu Thể-Tánh Vạn-Pháp, cốt Tỏ-Pháp mới giải-quyết Tử-Sanh. Nếu tu Thông-Đạt lối tu, thông-đạt vạn-pháp, chưa tận-thấu đường đi lối về, vẫn còn tập-khí  Sanh-Tử, chẳng bao giờ Giải-Thoát.

THẾ NÀO THỂ TÁNH VẠN PHÁP ?

Vạn-Pháp Thể-Tánh DIỆT rồi mới SANH, hay HOẠI xong mới SANH. Nơi Hoại rồi mới Sanh là nơi NHƯ-NHIÊN HIỆN-SANH THƯỜNG-CHÂN BẤT-BIẾN. Chỉ vì chúng-sanh lầm-lạc Thường-Sanh Bị-Diệt, mong Diệt bị Sanh, tu sai với Thể-Tánh, thành thử khó giải-quyết Sanh-tử, khó tu-đạt Chánh-Giác, làm thế nào Giác-Ngộ?

Vạn-Pháp với Chúng-Sanh đồng-đẳng không hai, Chúng-Sanh chẳng lầm-mê thảy đều là Phật, vì sự-Lý mê-lầm bất tương-đồng, chúng-sanh thọ-nghiệp, thọ-chủng, thọ-giới làm Chúng-Sanh-Giới. Khi Là Chúng-Sanh-Giới, một là nương theo Pháp-Giới tỏ rõ thâm-nhập Pháp-Giới để Giải-Giới. Hai là nương Khởi-Sanh, Khởi-Diệt, cốt THỊ-CHỨNG VÔ-SANH giải-quyết Sanh-Tử. Ba là lầm vạn-pháp tu-hành TỎ-PHÁP Đắc-Đạo.

Chư-Phật nhận thấy Chúng-Sanh Thọ-Giới Thọ-Chủng cùng Thọ-Nghiệp say-đắm nơi SẮC-THINH-HƯƠNG-VỊ Theo Ngũ-Dục thọ-Ái, kiến-Dục, nên chi Phật mới nói nơi Sanh-Diệt, Diệt-Sanh đều là Pháp Vô-Thường di-chuyển thay đổi không ngừng, cốt cho chúng-sanh chẳng nhiễm-trước, để lìa Ái-Dục Kiến-Dục, khỏi mắc miếu nơi Sắc-Thinh-Hương-Vị mà Thọ-Ngã Thọ-Nghiệp, Tâm không nhiễm trước mới tương-đồng với Thể-Tánh Vạn-Pháp mà Giác-Ngộ. Còn phần chúng-sanh phải sống trong chập-chờn Đói-No, Sướng-Khổ cùng Sống-Chết, mỗi một con-người cho đến hàng triệu con-người chẳng có con-người nào có Lẽ-Sống vĩnh-viễn cả, do đó kiếp con-người Giàu-Sang Danh-Giả thảy đều cuộc sống tạm-bợ, đời sống vô-ý-nghĩa đối với họ.

Lúc con-người phát-tâm tu-hành, tìm lẽ-sống Bất-Diệt, thoát khỏi Vô-Thường về với Thường-còn Bất-Biến. Những con-người nầy rất hiếm. Đa phần tu để tu cho ổn-định nó có một lẽ sống nương nơi đường tu hành mà sống an-lành. Khi đã mang lại sự kết-quả nơi họ, nhiều ít tùy nơi Thành-Thật và Thiết-Tha mà đáp số kết-quả, đương-nhiên những bậc ấy hăng-say, nhiễm Đạo mới nhận cảm Bản-Thân mình quá ư nhiều Nghiệp. Nghiệp kéo lôi bê-trễ, Nghiệp ngăn-cản đường tu do Tâm-Thức Chấp-Nghi, Nghi-Chấp, Nghiệp nó chướng-đối từng phần, va-chạm từng cơn, từng khúc. Mắt sanh chướng-ngại kẻ bạo-tàn. Tai nghe rủa-quyền, quyền-rủa độc-ác thô-bỉ cho đã cơn tức-tối của mọi người phát hiện. Bậc tu-hành lành-lẽ bèn Niệm-Phật để giải-trừ về KHẨU, Niệm-Pháp (xem Kinh-Pháp) cốt Tỏ-Tâm cung-kính cúng-dường Chư-Tăng cốt lãnh-hội đường-hướng tu-học.

Từ hàng nghìn xưa cho đến hiện nay Đạo Phật đã có TÔN-CHỈ cùng MỤC-ĐÍCH nơi Chư-Tăng hướng-dẫn, ĐẠO-LÝ làm con-đường  Xây-Dựng Bản-Thân. GIÁO-LÝ con đường  thâm-nhập tỏ rõ lời chỉ-dạy Kinh-Điển. Thực-Hành mới chứng-tri Bảo-pháp, kết-quả công-cuộc tu-hành.

Nhưng lạ thay! Lý thì nó có Bá-Thiên vạn Lý, nói như thế nào nghe ra cũng phải. Còn Trí lại có trình-độ khác nhau nơi cao chốn thấp. Từ Thánh đến Phàm, từ Tiên-Thần đến bậc Giác-Ngộ thảy đều mỗi Bậc nghe rõ mỗi lời, mỗi nơi nghe thông mỗi chỗ, mỗi cấp, mỗi tầm-số thảy đều thực-hiện theo nơi, tầm-số mình, nào mấy ai nghe suốt bá-thiên vạn Lý-Trí đồng nhất đâu mà thực-hành đúng với lời Vàng Kinh-Pháp? Khi bấy giờ bậc Chánh-Giác, bậc đã suốt-thông thấu-đáo Lý-Trí chung khắp Thế-gian và Xuất-Thế-Gian Tam Thiên Vũ-Trụ, nó có từng GIỚI, từng Phần, từng Dòng, từng Họ, Giới nào dòng nào tai nghe quen thuộc, mắt nhìn thường-an, miệng nói thường-lệ, nên chi không còn chướng-ngại khó nghe, khó hiểu, đồng trong một giới thảy đều thông-cảm nhau. Bằng khác Giới, phải THỌ-GIỚI, thâm-nhập giới mà Nghe-Thấy-Biết thật-sự không còn chướng-ngại, nên chi mới nói: Các bậc tu hành phải tu nơi GIỚI-ĐỊNH-TUỆ. Khi VÔ-THƯỢNG-TÔN tỏ rõ ngọn-ngành nên đã nói:

Nếu biết sớm chiều chưa thoải-mái.

Hương-nguyền nên giữ tấm tình trong.

Dẫn Nhập

HỠI CÁC CHÂN-PHẬT-TỬ

  • Chưa giải-quyết SANH-TỬ, đang còn đi trên con đường Tu-Chứng Chứng-Tu
  • Có GIẢI-QUYẾT Sanh-Tử mới LIỄU-NGỘ BẢN-NĂNG CHÁNH-GIÁC
  • Chưa TỎ-TÁNH đừng hòng MINH-TÂM

"CẨM-NANG CHỈ-ĐẠO CHÂN-TÔN"